Nghiên cứu ứng dụng thống kê Bayes phân tích việc sẵn lòng tham gia bảo hiểm cây cà phê theo chỉ số năng suất của hộ nông dân tỉnh Đắk Lắk - 8


chuyển nhu cầu tham gia bảo hiểm đã nêu này thành thực tế. Những cú sốc do thời tiết gây ra đã thay đổi đáng kể về thu nhập. Khi đó, các hộ nông dân xử lý thông qua việc sử dụng tài sản tiết kiệm và cạn kiệt tài sản. Đặc biệt là các hộ gia đình nghèo hơn thì dễ bị tổn thương hơn vì phải đối mặt với nhiều rủi ro hơn trong bối cảnh môi trường giống nhau và những hộ đó cần bảo hiểm hơn nhưng ít có khả năng và sẵn lòng trả tiền cho bảo hiểm. Điều này cho thấy rằng chương trình bảo hiểm thời tiết như vậy là cần thiết, nếu chúng hoạt động an toàn hiệu quả và để bảo hiểm đến với hầu hết những hộ có nhu cầu thì bảo hiểm cần một sự trợ cấp nào đó.

Theo Kong và cộng sự (2011), trong những thời kỳ này, nông dân Trung Quốc trồng trọt có nguy cơ và đối với một dân số nghèo chủ yếu, rất ít người có thể đủ khả năng để xáo trộn sinh kế đi c ng với hạn hán. Nghiên cứu điều tra việc sẵn lòng của nông dân dựa trên kết quả khảo sát của 890 hộ nông dân ở tỉnh Thiểm Tây và Cam Túc. Để có được cái nhìn sâu sắc hơn, nghiên cứ đã tiến hành hồi quy về việc nông dân sẵn lòng tham gia một sản phẩm bảo hiểm cây trồng với giá 500 Yuan (tương đương 1 triệu 6 VNĐ) nếu xảy ra hạn hán kéo dài mười năm. Kết quả cho thấy nhu cầu về bảo hiểm hạn hán đang xuống dốc và nguyên do là do giá bảo hiểm. Hộ nông dân có nhu cầu bảo hiểm thời tiết sẽ yêu cầu giảm giá hoặc trợ cấp đáng kể, có thể lên tới 80 như đang được áp dụng cho các sáng kiến bảo hiểm cây trồng hiện nay. Rủi ro gió lớn và rủi ro hạn hán là yếu tố chính trong việc việc sẵn lòng tham gia bảo hiểm cây trồng theo chỉ số thời tiết.

Aidoo, R. và cộng sự (2014) đánh giá việc sẵn lòng của hộ nông dân trong việc tham gia bảo hiểm cây trồng và các yếu tố quan trọng tác động đến phí bảo hiểm mà họ sẵn lòng tham gia bảo hiểm. Hai trong số mười một khu vực hoạt động nông nghiệp ở đô thị Sunyani được chọn có chủ đích do hầu hết các hộ sản xuất ngô và sắn. Bốn cộng đồng được chọn ngẫu nhiên từ m i khu vực hoạt động thông qua bỏ phiếu và mười lăm nông dân sau đó được chọn từ m i cộng đồng thông qua việc sử dụng các số ngẫu nhiên. Tổng cộng có 120 nông dân đã được chọn phỏng vấn để gợi ra thông tin chính với sự trợ giúp của một bảng câu hỏi có cấu trúc. Một mô hình hồi quy logistic nhị phân đã được sử dụng để xác định các yếu tố ảnh hưởng


đến hộ nông dân sẵn lòng tham gia bảo hiểm cây trồng như một chiến lược giảm thiểu rủi ro. Bên cạnh đó, một mô hình hồi quy tuyến tính đã được sử dụng để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến nông dân cao cấp sẵn lòng trả phí cho chương trình bảo hiểm cây trồng. Trong bối cảnh biến động ngày càng tăng trong các mô hình thời tiết và nhiều nguồn rủi ro trong nông nghiệp, vai trò của bảo hiểm cây trồng trong quản lý rủi ro ở cấp độ trang trại không thể được đề cao. Nghiên cứu này đã đánh giá triển vọng sử dụng bảo hiểm cây trồng như một chiến lược giảm thiểu rủi ro trong sản xuất cây trồng ở Ghana. Nghiên cứu đã chứng minh rằng khoảng 76% nông dân trồng ngô và sắn sẵn lòng áp dụng bảo hiểm cây trồng. Bằng việc sử dụng hồi quy logistic, Tuổi của chủ hộ, quyền hữu đất và trình độ học vấn đã được tìm thấy là là các nhân tố tác động đến việc sẵn lòng tham gia bảo hiểm cây trồng của hộ nông dân. Nghiên cứu tiết lộ rằng trợ cấp của chính phủ sẽ được yêu cầu cho một chương trình bảo hiểm như vậy vì phí bảo hiểm hộ nông dân cam kết trả tiền khá thấp và có khả năng không kinh tế từ góc độ của các công ty bảo hiểm tư nhân. Kết quả khảo sát cho thấy nông dân sẵn lòng trả khoảng 19-24 GHC (tương đương với 80.000-101.000 VNĐ) dưới dạng phí bảo hiểm hàng năm cho ngô và sắn tương ứng. Những con số này dường như khá thấp với giá trị của các loại cây trồng được thu hoạch trên m i mẫu Anh, và chi phí hành chính và giao dịch khổng lồ liên quan đến các chương trình bảo hiểm cây trồng. Nhưng những con số này không đáng ngạc nhiên với quy mô gia đình và mức thu nhập trong năm của các hộ nông dân trồng ngô và sắn trong khu vực nghiên cứu (264 GHC tương đương 1.134.000 VNĐ). Do đó, chương trình bảo hiểm cây trồng nào trong tương lai cho ngô và sắn muốn bền vững với mức sẵn lòng tham gia mức phí bảo hiểm của hộ nông dân thấp thì cần một số lượng lớn hộ nông dân tham gia bảo hiểm và trợ cấp từ chính quyền địa phương hoặc chính quyền trung ương. Các nhân tố như thu nhập trang trại, diện tích trang trại, quyền sử dụng đất, trình độ học vấn và số tiền tiết kiệm của hộ nông dân đã ảnh hưởng đáng kể đến những hộ nông dân sẵn lòng tham gia bảo hiểm cây trồng bằng phân tích hồi quy bội với phương pháp ước lượng bình phương tối thiểu (OLS). Bất kỳ chương trình bảo hiểm cây trồng trong tương lai trong khu vực


nghiên cứu nên xem xét các chương trình dựa trên thời tiết. Giáo dục sâu sắc cho hộ nông dân về nhu cầu bảo đảm trang trại của họ và cải thiện hành vi tiết kiệm của họ sẽ rất cần thiết để kích thích sự tăng trưởng bảo hiểm cây trồng khi nó được giới thiệu. Tăng trưởng lợi nhuận của nông dân sẽ tác động tích cực đến nhu cầu bảo hiểm cây trồng; do đó, bất kỳ chính sách nào nhằm tăng thu nhập cho trang trại cuối c ng cũng có thể tạo ra một thị trường cho bảo hiểm cây trồng. Cuối cùng, do nông dân có phí bảo hiểm tương đối thấp sẵn l ng đóng góp cho các chương trình bảo hiểm cây trồng, trợ cấp của chính phủ có thể được yêu cầu nếu các chương trình bảo hiểm cây trồng trong tương lai được bền vững.

Nghiên cứu của Gideon Danso-Abbeam và cộng sự (2014) đã phân tích việc sẵn lòng tham gia bảo hiểm ca cao của từ 201 nông dân trồng ca cao tại huyện Bibiani-Anhywo-Bekwai, Ghana. Có 57,71% hộ nông dân trồng ca cao đã được tìm thấy phản ứng tích cực với bảo hiểm giá cacao. Mô hình rào cản kép độc lập (individual double-hurdle) đã sử dụng hồi quy probit để xác định các yếu tố tác động đến việc hộ nông dân sẵn lòng tham gia bảo hiểm ca cao và hồi quy mẫu bị xén (truncated regression model) sẵn lòng tham gia phí bảo hiểm. Kết quả nghiên cứu cho thấy hộ nông dân sẵn lòng tham gia bảo hiểm cây trồng bị tác động bởi nhiều biến tích cực có ý nghĩa thống kê ở mức 5 như thu nhập, tình trạng hôn nhân, diện tích trang trại, chủ sở hữu đất, trình độ học vấn, trong đó quy mô hộ gia đình tác động tiêu cực. Mặt khác, người nông dân bảo hiểm sẵn lòng trả tiền có tác động đáng kể về tình trạng hôn nhân, sở hữu đất nông nghiệp, trình độ học vấn, nhận thức của nông dân về chương trình bảo hiểm và thu nhập từ trang trại ca cao. Hộ nông dân sẵn lòng trả phí bảo hiểm trung bình từ 9,3 đến 10,5% giá trị đền bù thiệt hại. Các yếu tố tác động đến việc nông dân sẵn lòng trả phí bảo hiểm là trình độ học vấn, tuổi cây ca cao bình phương và sở hữu đất; trong đó tình trạng hôn nhân tác động tiêu cực. Nghiên cứu khuyến nghị rằng thiết kế để thực hiện chương trình bảo hiểm ca cao của Ghana hoặc chính phủ Ghana nên xem xét các yếu tố tác động đến việc sẵn lòng tham gia của hộ nông dân đối với bảo hiểm ca cao. Ngoài ra, hộ nông dân nên được giáo dục tốt về chương trình bảo hiểm ca cao và những lợi thế


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 251 trang tài liệu này.

của nó. Điều bắt buộc là chính phủ Ghana và các bên liên quan phải hợp tác với các nhà cung cấp bảo hiểm để đưa ra một chính sách chiến lược để thuyết phục nông dân về độ tin cậy của chương trình bảo hiểm. Nghiên cứu nên được nhân rộng ở các vùng trồng ca cao khác ở Ghana vì đây có thể không phải là đại diện của toàn ngành ca cao ở Ghana.

Abraham Falola và cộng sự (2014) nghiên cứu việc sẵn lòng tham gia bảo hiểm cây trồng của nông dân trồng ca cao ở Ondo State, Nigeria (chiếm khoảng 50% sản lượng ca cao hàng năm của Nigeria). Nghiên cứu xuất phát từ nhu cầu quản lý rủi ro đối với việc sản xuất ca cao trong nước. Một quy trình lấy mẫu ba giai đoạn đã được sử dụng để lựa chọn 120 hộ nông dân trồng ca cao nhu sau: Đầu tiên, Idanre, Ondo-West, Ile-Oluji/Oke-Igbo, Odigbo, Akure South và Owo được là 6 v ng được lựa chọn có chủ đích; tiếp theo đó là lựa chọn ngẫu nhiên bốn cộng đồng trang trại từ m i trong số 6 vùng trên; cuối cùng, 5 hộ nông dân trồng ca cao được chọn ngẫu nhiên từ m i cộng đồng. Kết quả cho thấy 77,5% nông dân biết đến Bảo hiểm nông nghiệp, nhưng chỉ có 50 người sẵn lòng tham gia bảo hiểm. Mức sẵn lòng trả phí bảo hiểm trung bình của hộ nông dân là N11,088/ha (710.000 VNĐ/ha) với 88,3% sẵn lòng trả dưới N 10000 (640.000 VNĐ/ha) và 11,7 sẵn lòng trả từ N 10000-20000 (640.000-1.280.000 VNĐ) . Dữ liệu được phân tích bằng mô hình hồi quy probit. Với mức ý nghĩa thống kê 5%, các nhân tố quan trọng ảnh hưởng tích cực đến sự sẵn lòng tham gia bảo hiểm nông nghiệp của hộ nông dân là trình độ học vấn, tiếp cận dịch vụ khuyến nông. Bên cạnh đó nhân tố tuổi của chủ hộ tác động tiêu cực đến việc sẵn lòng tham gia bảo hiểm. Ngoài ra với mức ý nghĩa thống kê 10%, thu nhập trang trại tác động tiêu cực đến việc sẵn lòng tham gia bảo hiểm. Có thể giải thích rằng, nông dân có thu nhập cao hơn có thể áp dụng các chiến lược quản lý rủi ro khác. Điều này cho thấy rằng với kiến thức không đầy đủ về bảo hiểm cây trồng và thiếu niềm tin vào các công ty bảo hiểm, nông dân có thu nhập cao sẵn lòng áp dụng các chiến lược khác ngay cả khi chi phí cao hơn so với mua bảo hiểm. Do đó, dựa trên những phát hiện của nghiên cứu này, khuyến nghị rằng những người trẻ và có trình độ học vấn cao nên được khuyến khích tham gia tích

Nghiên cứu ứng dụng thống kê Bayes phân tích việc sẵn lòng tham gia bảo hiểm cây cà phê theo chỉ số năng suất của hộ nông dân tỉnh Đắk Lắk - 8


cực vào sản xuất ca cao, vì điều này sẽ cải thiện khả năng sẵn lòng bảo hiểm của họ. Cũng cần có các đại lý khuyến nông và các bên liên quan phát triển nông nghiệp khác tác động cho hộ nông dân trồng ca cao hiểu về tầm quan trọng của chính sách bảo hiểm nông nghiệp. Hơn nữa, các tập đoàn bảo hiểm nông nghiệp nên cung cấp sản phẩm bảo hiểm cho hộ nông dân với mức giá phải chăng để khuyến khích họ mua được bảo hiểm.

Liesivaara và Myyrä (2014) đã nghiên cứu việc sẵn sàng trả tiền bảo hiểm cây trồng của các hộ nông dân ở Phần Lan. Các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu bảo hiểm cây trồng cũng đã được kiểm tra tại một quốc gia nơi các sản phẩm bảo hiểm cây trồng hiện không có sẵn. Tổng cộng có 1.170 mẫu khảo sát đã được trả lại. Sau khi các câu trả lời bị thiếu đã bị xóa khỏi bộ dữ liệu thì còn lại 965 mẫu. Dữ liệu đã được phân tích với mô hình logistic của nông dân cho bảo hiểm cây trồng. Kết quả việc việc sẵn l ng tham gia bảo hiểm cao hơn ở những nông dân trẻ và những trang trại có nhiều đất canh tác hơn.

Lin và cộng sự (2015) nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến hộ nông dân sẵn sàng mua bảo hiểm WII cho mùa màng ở tỉnh Hải Nam, ở Trung Quốc thông qua. Một cuộc khảo sát với 134 nông dân đã được thực hiện tại Hải Nam, Trung Quốc về việc họ sẵn sàng mua bảo hiểm WII. Mô hình hồi quy probit đã được sử dụng để giải thích việc sẵn lòng của nông dân khi mua bảo hiểm WII. Kết quả là những hộ nông dân trồng cây bột giấy và cao su sẵn l ng tham gia bảo hiểm WII hơn những hộ trồng chuối và gạo. Các yếu tố như thế hệ trồng trọt (ví dụ: thế hệ 1, thế hệ 2, thế hệ 3,...), rủi ro sâu bệnh và rủi ro con trùng hại, niềm tin với công ty bảo hiểm và thái độ tích cực đối với bảo hiểm thời tiết tác động đến việc sẵn sàng mua bảo hiểm WII với mức ý nghĩa thống kê 5%.

Nghiên cứu của Arshad và cộng sự (2015) xác định liệu bảo hiểm cây trồng có phải là một công cụ chấp nhận được đối với các sự kiện lũ lụt và hạn hán ở vùng nông thôn Pakistan hay không. Nó cũng phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến việc nông dân có sẵn sàng trả phí bảo hiểm. Trong một cuộc khảo sát hộ nông dân ở nông thôn, kết quả đã chứng minh rằng một tỷ lệ cao các hộ gia đình nông thôn sản


xuất nhỏ đã bác bỏ ý tưởng về bảo hiểm cây trồng và không muốn mua các hợp đồng bảo hiểm. Mặc dù họ thường muốn tránh mất mùa do các thảm họa liên quan đến thời tiết khắc nghiệt, nhưng tỷ lệ nông dân sẵn sàng tham gia và chi trả cho chương trình bảo hiểm chỉ gần 30%, cho thấy nhu cầu bảo hiểm cây trồng khá thấp. Hầu hết những người được hỏi không muốn tham gia chương trình bảo hiểm cây trồng như vậy tuyên bố rằng với mức tăng giá hiện tại của các mặt hàng thực phẩm, hóa đơn điện và các nhu yếu phẩm khác ở Pakistan. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy nhu cầu bảo hiểm cây trồng ở Pakistan thay đổi tùy theo tuổi, giáo dục, quy mô gia đình, quyền sở hữu đất đai, nguồn thu nhập, khả năng tưới tiêu, tiếp xúc với các sự kiện cực đoan trước đây và tiếp cận các dịch vụ tín dụng và khuyến nông. Khả năng thanh toán cần phải được xem xét khi đưa ra các chương trình bảo hiểm cây trồng chống lũ lụt hoặc hạn hán ở Pakistan. Hơn nữa, việc phổ biến nhận thức giữa các cộng đồng nông nghiệp về những thay đổi khí hậu trong tương lai và những rủi ro liên quan đến sự xuất hiện của các sự kiện thời tiết khắc nghiệt là bắt buộc.

Nghiên cứu của Yakubu BalmaIssaka và cộng sự (2016) về sự sẵn lòng tham gia bảo hiểm cây trồng theo chỉ số hạn hán của hộ nông dân trồng ngô được thực hiện ở huyện Bắc Nanumba thuộc khu vực phía Bắc Ghana. M i làng chọn 10 hộ nông dân từ 10 làng đã được lựa chọn ngẫu nhiên để tạo thành cỡ mẫu của 100 hộ nông dân bằng cách sử dụng kỹ thuật lấy mẫu ngẫu nhiên đơn giản. Nghiên cứu tiết lộ có đến 41% hộ nông dân được khảo sát không sẵn lòng tham bảo hiểm cây trồng. Những hộ nông dân này xem bảo hiểm là gánh nặng không cần thiết và bổ sung. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên vì kiến thức và khả năng tiếp cận bảo hiểm của người dân nông thôn ở Ghana nói chung là kém. Điều này dường như được h trợ bởi thực tế là 44% số người được hỏi không có tham gia bất cứ bảo hiểm nào khác. Hình thức bảo hiểm duy nhất có vẻ như đang hoạt động ở khu vực nông thôn là bảo hiểm y tế quốc gia được trợ cấp và không phản ánh đúng thực tế khi có liên quan đến phí bảo hiểm. Phân tích hồi quy logistic được sử dụng để dự đoán sự sẵn lòng tham gia bảo hiểm cây trồng của hộ nông dân. Với mức ý nghĩa thống kê 5%, các nhân tố như tiếp cận tín dụng, giáo dục và tham gia các hình thức bảo hiểm


khác là những yếu tố quan trọng nhất quyết định sự sẵn lòng tham gia bảo hiểm cây trồng của hộ nông dân. Nghiên cứu nhấn mạnh sự cần thiết phải tích hợp bảo hiểm cây trồng vào tài chính vi mô để tăng cường sự tham gia bảo hiểm của hộ nông dân. Bằng cách này, nông dân được giảm bớt gánh nặng phải chịu chi phí trong trường hợp thua l trên diện rộng trong khi các nhà cung cấp dịch vụ tài chính có thể phục hồi được tổn thất của họ. Giáo dục đại chúng qua đài phát thanh và truyền hình là chìa khóa để cải thiện khả năng tiếp cận thông tin về bảo hiểm cây trồng của nông dân. Tuy nhiên, về lâu dài, nhà nước cần đầu tư vào giáo dục ở khu vực nông thôn là rất quan trọng, để đảm bảo việc tham gia bảo hiểm cây trồng.

Theo Elvis Dartey Okoffo và cộng sự (2016), nông nghiệp là một ngành quan trọng trong nền kinh tế Ghana, tuy nhiên, có rủi ro cao do các yếu tố tự nhiên như biến đổi khí hậu, sâu bệnh, cháy rừng và những người khác. Nông dân ở vùng Brong-Ahafo của Ghana, được biết đến như một trong những vùng sản xuất ca cao chính, phải đối mặt với những rủi ro này đôi khi dẫn đến mất m a. Do đó, nhu cầu của nông dân để đảm bảo trang trại của họ chống lại mất mùa là rất quan trọng. Bảo hiểm đã là một biện pháp để bảo vệ chống lại rủi ro. Mục đích của nghiên cứu này là đánh giá mức độ sẵn lòng tiếp cận bảo hiểm cây trồng của ca cao, các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ sẵn lòng tham gia bảo hiểm cây trồng và các công ty bảo hiểm có sẵn lòng cung cấp bảo hiểm cây trồng cho nông dân trồng ca cao. Tổng cộng 240 nông dân trồng ca cao đã được chọn cho nghiên cứu sử dụng kỹ thuật lấy mẫu nhiều giai đoạn. Huyện Dormaa West trong vùng Brong-Ahafo của Ghana được lựa chọn có chủ đích do ưu thế sản xuất ca cao trong khu vực; Bốn cộng đồng trồng ca cao trong huyện là Nkrankwanta, Diabaa, Krakrom và Kwakuanya được lấy mẫu ngẫu nhiên và sau đó 60 hộ nông dân trồng ca cao được chọn ngẫu nhiên từ m i trong bốn cộng đồng trồng ca cao. Khảo sát được thực hiện từ tháng 12 năm 2014 đến tháng 3 năm 2015.

Mô hình rào cản kép (A doublehurdle model) được sử dụng trong nghiên cứu như sau: Phương trình đầu tiên trong mô hình rào cản kép là sử dụng hồi quy probit để ước lượng sự sẵn sàng tham gia bảo hiểm cây trồng. Phương trình thứ hai ước


tính số tiền phí bảo hiểm mà nông dân sẵn sàng trả được ước tính bằng cách sử dụng hồi quy cắt xén (cụ thể là hồi quy Tobit) ở mức chi trả bằng 0. Phân tích bước đầu bằng hồi quy probit, nghiên cứu cho thấy tuổi tác, tình trạng hôn nhân và trình độ học vấn có ý nghĩa thống kê với mức 5 và tác động dương đến hộ nông dân trồng ca cao sẵn lòng tham gia bảo hiểm cây trồng của họ trong khi đó quy mô hộ gia đình và diện tích trang trại có ý nghĩa thống kê với mức 5 và tác động âm đến nông dân trồng ca cao sẵn lòng bảo hiểm trang trại của họ. Tiếp sau đó, phân tích bước sau bằng hồi quy tobit, nghiên cứu cho thấy tuổi, quy mô hộ gia đình và diện tích trang trại tác động tích cực đến sẵn l ng tham gia bảo hiểm của những hộ nông dân trồng ca cao với ý nghĩa thống kê ở mức 5 và trong khi đó tình trạng hôn nhân tác động tiêu cực đến sẵn l ng tham gia bảo hiểm của những hộ nông dân trồng ca cao với ý nghĩa thống kê ở mức 5%. Phương pháp định giá ngẫu nhiên cho thấy rằng số lượng tối đa, tối thiểu và trung bình mà nông dân trồng ca cao sẵn lòng trả cho bảo hiểm cây trồng trên m i chi phí sản xuất trên m i mẫu Anh là 128 GH, 32 GH và 49 GH (tương đương với 546.000 VNĐ, 136.000 VNĐ , 209.000 VNĐ).

Phần lớn nông dân trồng ca cao (85,40%) sẵn lòng bảo hiểm cho các trang trại ca cao của họ. Tuy nhiên, chỉ có 6,83% nông dân sẵn lòng trả phí bảo hiểm tối đa. Có thể suy luận rằng mặc dù nông dân sẵn lòng bảo hiểm trang trại của họ, nhưng họ sẵn lòng bảo hiểm không có nghĩa là đa số sẽ trả phí bảo hiểm cao hơn. Nghiên cứu cho thấy phần lớn (80%) nông dân trồng ca cao đã sử dụng Chương trình Bảo hiểm Y tế Quốc gia, chính sách bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm ô tô nhưng chưa bao giờ sử dụng bảo hiểm cây trồng. Điều này là do thiếu chương trình bảo hiểm cây trồng. Tuy nhiên, 40% nông dân biết hoặc có kiến thức về bảo hiểm cây trồng từ các phương tiện truyền thông, đại lý nông nghiệp và hội nông dân. Điều này cho thấy bảo hiểm cây trồng không phổ biến trong nông dân trồng ca cao. Lí do là các công ty bảo hiểm không có chương trình bảo hiểm cây trồng như là một phần của hoạt động của họ mặc dù phần lớn nhận thức được chương trình bảo hiểm cây trồng. Tuy nhiên, các công ty bảo hiểm sẵn lòng cung cấp bảo hiểm cây trồng cho nông dân trồng ca cao nếu chỉ nông dân áp dụng các cách canh tác hiện đại để giảm rủi ro

Xem tất cả 251 trang.

Ngày đăng: 11/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí