Không Gian Văn Hoá Tộc Người Khmer Nam Bộ


thay đổi đó chính là phần bổ sung cho những bất cập của phương pháp nghiên cứu truyền thống.

3. Từ sự thay đổi trong hướng tiếp cận đã dẫn đến sự thay đổi trong cách ghi chép và kiến giải tư liệu. Với những đặc điểm lí luận xuất phát từ các ngành khoa học kế cận, hướng nghiên cứu VHDG trong bối cảnh đi đến việc ghi chép và kiến giải nội dung tác phẩm bằng những cách thức khác với truyền thống, mang đến cho người đọc những góc nhìn mới hơn về tác phẩm. Nghiên cứu VHDG dưới góc nhìn bối cảnh không chối bỏ hướng tiếp cận văn bản và các phương pháp ngữ văn mà phối hợp với các phương pháp đó nhằm trả tác phẩm folklore về đời sống thực của nó. Với việc vận dụng nhiều ngành khoa học kế cận trong việc lí giải diễn ngôn kể chuyện, các nhà nghiên cứu theo hướng đi bối cảnh tin rằng: trong thành quả thu được, các vấn đề mà folklore tư liệu gặp phải và chưa giải quyết được thì sẽ được “bối cảnh” giải quyết một cách rò ràng và thuyết phục.


Chương 2

KHÔNG GIAN VĂN HÓA TỘC NGƯỜI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TRUYỆN DÂN GIAN KHMER NAM BỘ


2.1. Không gian văn hoá tộc người Khmer Nam Bộ


Người Khmer có một nét độc đáo và nổi bật khi đặt trong không gian văn hóa Nam Bộ. Nét riêng đó không chỉ thể hiện trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày mà còn thể hiện trong sinh hoạt văn hóa, trong đó có sáng tác nghệ thuật. Việc nghiên cứu và tìm hiểu các giá trị văn hóa và VHDG của tộc người này đã được tiến hành mạnh mẽ vào thời gian sau năm 1975. Đến nay, khi nhìn lại, người ta mới thấy rằng chính nét riêng đó đã cung cấp một môi trường thuận lợi cho việc diễn xướng văn hóa dân gian. Viết về văn hóa tộc người luôn là một đề tài hấp dẫn cho nhiều nhà nghiên cứu bởi yếu tố “lạ”, “mới” và “độc đáo” gần như đã hiện diện sẵn ở đối tượng. Nhưng dân tộc học cũng là lĩnh vực không đơn giản vì người ta rất dễ rơi vào tình trạng giẫm lên dấu chân người đi trước, nói lại những điều người khác đã nói. Do đó, để thấy được nét riêng trong đặc điểm văn hóa của người Khmer Nam Bộ người ta thường dùng phương pháp so sánh với người Việt trên cùng địa bàn và người Khmer ở địa bàn khác (Campuchia). Trong phạm vi luận án này, chúng tôi chỉ khái quát một số nét văn hoá có giá trị tác động đến truyện dân gian nói chung và các gợi ý về bối cảnh có khả năng diễn xướng các thể loại. Những yếu tố đó có thể kể đến là đặc trưng tộc người - điều kiện cư trú và nét riêng trong tín ngưỡng phong tục. Những đặc điểm vừa nêu giúp ta hiểu rò hơn về khái niệm bối cảnh cụ thể và nhờ đó, đòi hỏi những phương pháp tiếp cận hữu hiệu hơn.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 284 trang tài liệu này.


2.1.1. Đặc trưng tộc người và đặc điểm cư trú.

Nghiên cứu truyện dân gian Khmer Nam bộ dưới góc nhìn bối cảnh - 12


Đặt trong sự đối chiếu với người Việt ở Nam Bộ, người Khmer (trước đây gọi là người Miên) là một trong những dân tộc thiệt tình, chịu khó, “chịu chơi” và có cá tính. Theo nhiều tài liệu dân tộc học và khảo cổ học cho thấy: người Khmer Nam Bộ là tộc người thuộc dòng ngôn ngữ Nam Á, nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer, cùng nhóm ngôn ngữ với 24 tộc người khác cư trú trên đất nước ta, phân bố trên các vùng núi thuộc tỉnh Sơn La, Lai Châu trải dài đến dãy Trường Sơn và vào tận miền Đông Nam Bộ. Theo cuộc tổng điều tra dân số năm 2009, “tổng số dân Khmer ĐBSCL là 1.381.986 người, chiếm 8% dân số trong vùng” [40, tr.8], đứng hàng thứ 5 trên tổng số 54 dân tộc sống trên nước ta. Người Khmer Nam Bộ phần lớn sinh sống ở ĐBSCL, xen lẫn người Việt, người Hoa, người Chăm … trong đó tỉ lệ phân bố dân cư cao nhất là nằm ở 4 tỉnh (Sóc Trăng, Trà Vinh, Kiên Giang, An Giang). Khi tự xưng, người Khmer gọi mình là Khmer Krôm (ở thấp), để phân biệt với người Khmer ở bên kia biên giới Việt Nam – Campuchia là Khmer Lơ (ở cao) và Khmer Kandal (ở giữa). Khi được gọi, người Khmer được các dân tộc khác kêu bằng nhiều tên khác như Miên, Việt gốc Miên, Cur, Cul, …

Người Khmer ở ĐBSCL cư trú theo rải rác trên nhiều tỉnh thành và tập trung thành ba cụm chính, mỗi vùng có sắc thái riêng. Theo Đinh Văn Liên, ba vùng ấy gồm: (1) đất giồng Trà Vinh-Trà Cú - một trong những vùng cư trú cổ xưa nhất của người Khmer ở ĐBSCL (…). (2) ven biển Sóc Trăng – Bạc Liêu - vùng ven biển của người Khmer, nổi bật lên yếu tố hoà hợp văn hoá – nhân chủng giữa ba dân tộc Việt-Hoa-Khmer. (3) biên giới Châu Đốc, Tri Tôn, Hà Tiên, Rạch Giá - là vùng mang tính cách trung gian giữa người Khmer đồng bằng Sông Cửu Long và người Khmer Campuchia [76, tr.58-59]. Nhiều tài liệu cũng thừa nhận rằng người, trên cơ sở thống nhất nhau về đặc điểm văn hóa, người Khmer ở vùng Châu Đốc - Rạch Giá có sự giao lưu trực


tiếp với người Khmer ở Campuchia, cộng với điều kiện cư trú nằm giữa dãy Thất sơn và vùng Tứ giác Long Xuyên, nên những cách ứng xử mang sắc thái tương đối khác so với đồng bào Khmer vùng đồng bằng Trà Vinh-Cửu Long và vùng ven biển Sóc Trăng-Bạc Liêu. Người Khmer ở Nam Bộ, đặc biệt là ở ĐBSCL có đặc điểm cư trú theo 4 hình thức: trên đất giồng; trên đất ruộng; theo kênh mương hay các con rạch nhỏ; và theo trục lộ giao thông. Mỗi hình thức cư trú ít nhiều cũng có tác động đến các yếu tố kinh tế và văn hóa, làm cho lối sống và tập quán cũng có chút khác nhau ở các thế cư trú đó. Tuy nhiên, nhìn chung hầu hết người Khmer có những nét lớn tương đồng giữa tất cả các vùng miền ở Nam Bộ. Nếu tìm sự khác biệt, có lẽ phải nghĩ đến người Khmer ở Campuchia.

Ngô Đức Thịnh đã từng lưu ý rằng trước nhiều hiện tượng văn hóa trong một tổng thể, người nghiên cứu cần phải phát hiện ra những yếu tố giữ vai trò hệ thống, nghiên cứu mối quan hệ giữa hệ thống với môi trường bên ngoài; tức là nhấn mạnh yêu tố nào tạo nên nét riêng của một hệ thống. Trên cơ sở đó, Thạch Voi đã chỉ rò:

Dù sống xen kẽ với các tộc người khác, dù có quan hệ qua lại với người Việt và người Hoa trong nhiều thế kỉ, nhưng nhờ khuôn khổ phum srok, từng người Khmer đã sinh ra, lớn lên, vẫn làm ăn hoạt động trong khung văn hóa tộc người mình. Nói như thế để thấy rò rằng, muốn tìm hiểu văn hóa của người Khmer ở đây không thể nào không đặt nó vào khung xã hội của nó, tức là phum srok mà xem xét [135, tr.15].

So với người Khmer ở Campuchia, điều kiện sống của người Khmer ở Nam Bộ có những nét dị biệt. Cũng là xã hội nông nghiệp lúa nước nhưng người Khmer Nam Bộ thường tập hợp nhau lại thành những tập thể láng


giềng nhỏ, bám sát đất trồng trọt và gọi là “phum” và cao hơn phum là “srok” (còn gọi trại ra thành sóc). Phum srok không hoàn toàn tương đương với đơn vị hành chính, nên dù có sự thay đổi thể chế chính trị, người Khmer vẫn giữ được tổ chức xã hội theo kiểu của mình. Điều này không tìm thấy ở Campuchia. Chẳng hạn Thạch Voi dẫn lời của một giáo sư người Campuchia tên là Sôm Som Un trong Lịch sử Kampuchea cho rằng:

…Ở Kampuchea không có dạng phum như vậy, người ta cất nhà ở rải rác khắp nơi. Nếu nơi nào có dạng phum như trên, ấy chính là do người Khmer gốc từ đồng bằng Sông Cửu Long lên làm ăn sinh sống và lập ra và dù cho ở đến bao nhiêu đời đi nữa thì họ vẫn giữ nề nếp tổ chức phum như thế [129, tr.22].

Do đó, nền văn hoá của người Khmer sống ở hai quốc gia khác nhau đã có những bước phát triển khác và cũng từ đó tạo nên sắc thái riêng cho cư dân Khmer sống ở vùng đất phía Nam của tổ quốc ta. Về tính chất văn hóa, khi so sánh giữa Khmer Nam Bộ với người Khmer ở Campuchia, người ta cho rằng, người Khmer Nam Bộ có “một nền văn hoá ít bảo thủ hơn, trình độ dân trí, xã hội, nhân văn tiến triển ở nhiều mức khác hơn” [129, tr.55]. Họ có một tâm lí và cá tính dễ hòa đồng, dân dã, linh hoạt và gần gũi do nhiều yếu tố tự nhiên lẫn xã hội tác động. “Điều này khác với tính hướng thượng, tính chặt chẽ, tính đẳng cấp của xã hội Khmer truyền thống ở Campuchia” [87, tr.717]. Choi Byung Wook [139], trong cuốn sách viết về chính sách cải biến và đồng hóa các dân tộc thiểu số của triều Minh Mạng vào những năm 30 của thế kỉ XIX, đã chứng minh rằng: bằng nhiều cách thức khác nhau qua hệ thống chính sách về tộc người của mình (đất đai, canh tác, thờ cúng, quy hoạch dân cư, giáo dục,…), vua Minh Mạng đã tạo ra sự thay đổi về lối sống, tín ngưỡng và phong tục của người Khmer Nam Bộ. Những sắc thái văn hóa


của họ đã ngày càng có sự ảnh hưởng từ những dân tộc Việt, Hoa và có nhiều điểm khác với người Khmer Campuchia.

Phum và sóc của người Khmer Nam Bộ không chỉ là phạm vi cư trú mà nó còn liên quan đến những khác biệt về sắc thái văn hóa của từng vùng. Một phum hay vài phum thường được định danh theo ngôi chùa gần nhất, nơi mà tất cả bà con có thể đến để lễ Phật trong những dịp quan trọng. Trong đời sống, khi người Khmer đi đến địa phương khác, người ta vẫn hỏi nhau: “boong nâu phum na?” (Anh ở phum nào?), và câu trả lời thường là tên phum gắn với ngôi chùa hay tên vùng đất có ngôi chùa toạ lạc trên đó. Khi người hỏi nghe trả lời thì họ cũng sẽ tự nhận biết những sắc thái khác biệt trong lối sống của người Khmer vùng đó để ứng xử. Vì vậy, trong một số vấn đề liên quan đến văn hóa Khmer, tới ngày nay, đơn vị hành chính của nhà nước đôi lúc phải nhường chỗ cho phum sóc. Phum sóc không chỉ là lằn ranh địa lí mà còn là lằn ranh tâm thức quê hương trong lòng mỗi người dân Khmer Nam Bộ.

Như vậy với sự so sánh theo hai hướng như trên, tộc Người Khmer Nam Bộ nổi bật lên so với người Việt và người Hoa, cũng như so với người Khmer ở Campuchia là cư trú theo phum sóc trên vùng đất giồng cao ráo. Do phụ thuộc vào yếu tố này nên nhiều cộng đồng người Khmer không sống liên tục với nhau. Người Việt và các dân tộc khác đã sống đan xen vào giữa những phum và sóc ấy tạo nên sự giao thoa và tiếp biến về lối sống lẫn phong tục. Tuy nhiên cũng chính nhờ phum sóc và ngôi chùa làm trung tâm hội tụ nên người Khmer Nam Bộ lại lưu giữ được nhiều nét văn hóa riêng và độc đáo.

2.1.2. Nét riêng trong tín ngưỡng và phong tục


Nhiều người cho rằng, khi nói đến văn hoá Khmer tức là nói đến nền văn hoá chịu ảnh hưởng sâu đậm của triết lí Phật giáo Nam tông, thậm chí


một vài công trình nghiên cứu đã khẳng định rằng: Sự phổ biến của Phật giáo trong đời sống tinh thần của người dân Khmer chính là sự thắng thế của Phật giáo đối với đạo Bà La Môn. Nói thắng thế không có nghĩa là thay thế, vì trong tâm thức của người Khmer vẫn còn một số dấu ấn của Bà La Môn giáo, nhất là trong một số lễ hội, phong tục. Như trên đã nói, nền văn hóa Ấn Độ đã cung cấp nguồn đề tài cho văn hóa nghệ thuật Khmer, thậm chí một vài yếu tố còn đặc biệt quan trọng trong các loại hình nghệ thuật như: “tín ngưỡng thờ Siva” là cơ sở tôn giáo cho nhiều đề tài và chủ đề thể hiện trong trang trí và điêu khắc của nghệ nhân Khmer; “sử thi Ramayana và Mahabharata cung cấp đề tài, … và thể thức múa” [129, tr.73] cho các điệu múa nghi lễ của người Khmer. Hay là, dù Phật giáo đã trở thành một “môi trường sống” cho bất cứ người Khmer nào nhưng nhiều tín ngưỡng dân gian vẫn còn in đậm tư tưởng của Ấn Độ giáo, chẳng hạn như các khái niệm “Neak-tà”, “Maha-prưm”, “Rea-hu”, chim “Krut”, tiên thần “Krây-no” đều có nguồn gốc từ Bà La Môn giáo. Vì thế khi tìm hiểu các vấn đề có liên quan đến văn hóa dân tộc Khmer, phải thừa nhận Phật giáo có tác động sâu sắc đến tất cả những lễ tục trong cuộc đời mỗi con người Khmer, nhưng cũng đừng nên quên cội nguồn sâu xa của tín ngưỡng tôn giáo Bà La Môn trong tâm thức và quan niệm về cuộc sống của họ.

Bên cạnh việc so sánh để tìm ra nét riêng, người ta còn dùng phương pháp tâm lí học xã hội để nghiên cứu chính nhận thức của người Khmer về bản thân tộc người mình. Vì vậy, đứng trước câu hỏi: “phải chăng tín ngưỡng Phật giáo và hệ thống chùa chiền là yếu tố giữ vai trò tạo hệ thống của người Khmer?” thì nhiều nhà nghiên cứu đã dùng phương pháp tâm lí học để tìm câu trả lời, tiêu biểu là luận án tiến sĩ chuyên ngành tâm lí học Tính cách người Khmer đồng bằng Sông Cửu Long [13]. Theo tác giả, trong nhiều đặc tính tương đồng với nhiều sắc dân khác, những tính cách “tích cực” của người


Khmer vùng ĐBSCL là: Tính báo hiếu, tính tôn sùng Phật giáo, và tính cộng đồng. Những tính cách này không chỉ trội hơn mà còn là những tiêu chí quan trọng để phân biệt người Khmer với các tộc người khác trên một không gian cư trú. Từ việc tiếp cận tâm lí ở các khía cạnh: nhận thức, xúc cảm và hành vi của người Khmer, luận án nêu trên đã có những số liệu và những minh chứng thuyết phục về đặc điểm tính cách tộc người đông dân thứ năm trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.

Người Khmer là một dân tộc sống trong tôn giáo, do tôn giáo và vì tôn giáo. Phật giáo Nam tông đỡ đầu mỗi cá nhân của người Khmer từ lúc họ sinh ra đến lúc nhắm mắt lìa trần. Mỗi gia đình người Khmer có nhà riêng nhưng tâm thức của họ lại hướng về chùa - ngôi nhà chung của cộng đồng. Cơ cấu quần thể các gia đình quây quần quanh một chùa đã tạo nên một sinh quyển trú ngụ vô cùng đặc trưng so với người Việt. Trong tâm hồn và suy nghĩ của từng cá nhân người Khmer đều có một phần tinh thần dành cho còi tâm linh chung của cộng đồng. Còi linh thiêng ấy luôn hướng về ngôi chùa của mình. Do vậy, nhiều người Khmer, dù ngôi nhà của mình chỉ là mái lá đơn sơ nhưng lại rất sẵn lòng để cúng dường xây ngôi chùa của phum sóc. Cái thế mà những ngôi chùa Khmer toạ lạc ở giữa rừng cây trầm mặc cũng có phần nào ảnh hưởng sâu đậm đến ý thức chọn vị trí xây nhà của người Khmer. Tôn trọng, ngưỡng mộ và sùng bái sức mạnh của tự nhiên, nhiều phum sóc của người Khmer luôn có ý thức nằm sau những hàng cây ngút ngàn, tiếp giáp những cánh đồng. Xung quanh nhà người Khmer bao giờ cũng rợp bóng cây xanh (trừ trường hợp một số ít sống trong đô thị). Ở những vùng có đông đồng bào Khmer cư ngụ như Sóc Trăng, Trà Vinh, An Giang, cây cối luôn tươi tốt và xum xuê. Đối với những vùng đô thị hoặc ven đô, người Khmer cũng thỉnh thoảng cất nhà ở cạnh đường lớn, nhưng số đó không nhiều. Đa phần người Khmer khi sống chung với người Việt và người Hoa vẫn thích lui vào những

Xem tất cả 284 trang.

Ngày đăng: 20/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí