quan trọng, bù dịch có hiệu quả ngay từ đầu làm giảm tình trạng cô đặc
máu và giảm tỷ lệ sốc. Trong nghiên cứu của chúng tôi, hematocrit ở nhóm DWS có cao hơn ở nhóm DHF (40,5% so với 40%). Tuy nhiên, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
Xét nghiệm kháng nguyên, kháng thể đặc hiệu với virus Dengue
Kết quả Bảng 3.3 chỉ ra tỉ lệ xét nghiệm kháng nguyên NS1 dương
tính khá cao
ở cả
2 nhóm bệnh nhân nghiên cứu (89 và 86,9%) cao hơn
nhiều so với nghiên cứu của Diệp Thanh Hải (2013) với 35,6% NS1 dương tính hay Kassim F.M. (2011) với 32,2 % dương tính sự khác biệt này có thể do khác biệt về thời điểm lấy mẫu xét nghiệm kháng nguyên NS1, . Kết quả này chỉ ra giá trị của xét nghiệm kháng nguyên NS1 trong chẩn đoán sốt xuất huyết Dengue. Bên cạnh xét nghiệm kháng nguyên NS1, kết quả
xét nghiệm kháng thể DENVIgM và DENVIgG cũng rất có ý nghĩa.
DENVIgM dương tính có thể được dùng làm tiêu chuẩn chẩn đoán xác
Có thể bạn quan tâm!
- Mối Liên Quan Giữa Nồng Độ Protein Mbl Với Mức Độ Bệnh Và Một Số Biểu Hiện Lâm Sàng, Cận Lâm Sàng Trong Bệnh Sốt Xuất Huyết Dengue
- Mối Liên Quan Giữa Tính Đa Hình Gen Mbl2 Và Nồng Độ Mbl Huyết Thanh Ở Bệnh Sốt Xuất Huyết Dengue
- Đặc Điểm Chung Nhóm Bệnh Nhân Sốt Xuất Huyết Dengue
- Mối Liên Quan Giữa Tính Đa Hình Gen Fcn2 Với Mức Độ Bệnh Và
- Mối Liên Quan Giữa Nồng Độprotein Mbl Với Mức Độ Bệnh Và Một Số Biểu Hiện Lâm Sàng, Cận Lâm Sàng Trong Bệnh Sốt Xuất Huyết Dengue
- Về Mối Liên Quan Giữa Tính Đa Hình Gen Fcn2 Và Nồng Độ Protein Ficolin2 Ở Bệnh Sốt Xuất Huyết Dengue
Xem toàn bộ 189 trang tài liệu này.
định SXHD trong trường hợp xét nghiệm kháng nguyên DENVNS1 âm tính. Đặc biệt là DENVIgG, đây là marker xuất hiện muộn và có thể giúp phân biệt nhiễm Dengue nguyên phát hay nhiễm thứ phát. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỉ lệ dương tính với DENVIgG ở nhóm DWS cao hơn rất nhiều so với nhóm DHF (29 so với 17,4%). Hay nói cách khác tỉ lệ nhiễm Dengue thứ phát ở nhóm DWS cao hơn ở nhóm DHF, khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Kết quả này phù hợp với cơ chế bệnh sinh của sốt xuất huyết Dengue là nhiễm Dengue thứ phát thường có biểu hiện nặng hơn nhiễm nguyên phát theo cơ chế miễn dịch tăng cường.
Kết quả Hình 3.1 chỉ ra hoạt độ enzym GOT và GPT tăng cao hơn ở nhóm dương tính với các kháng thể IgG và IgM đặc hiệu cho virus Dengue so với nhóm âm tính, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,0001. Kết
quả
này chỉ
ra mối liên quan giữa virus
Dengue và tình trạng tổn thương
gan ở bệnh nhân mắc sốt xuất huyết Dengue.
4.2. Về tính đa hình gen MBL2, FCN2 và nồng độ protein MBL, Ficolin 2 ở các nhóm đối tượng nghiên cứu
4.2.1. Về tính đa hình gen MBL2 ở các nhóm đối tượng nghiên cứu
MBL2 là một gen có tính đa hình cao, các đa hình gen MBL2 đã được
chỉ
ra có liên quan đến làm thay đổi nồng độ
cũng như
hoạt tính protein
MBL trong huyết thanh , , , , , , . Các nghiên cứu chỉ ra các đa hình ảnh
hưởng lớn tới nồng độ cũng như hoạt tính protein MBL từ đó ảnh hưởng tới tăng tính nhạy cảm của các cá thể mang đa hình đối với các bệnh lý đặc biệt là bệnh truyền nhiễm tập trung chính ở vùng promoter và exon 1 của gen MBL2. Do đó, trong nghiên cứu này chúng tôi cũng tập trung phân tích tính đa hình gen MBL2 trên các vùng vùng promoter, exon 1.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng phương pháp giải trình tự gen Sanger để xác các điểm đa hình trên gen MBL2. Chúng tôi tập trung vào phân tích các điểm đa hình đã được công bố có liên quan đến tăng tính nhạy cảm với các bệnh lý là : 550C/G; 221G/C,A và +4G/A trên vùng promoter và codon 52; codon 54; codon 57 trên exon 1 gen MBL2. Kiểu gen và kiểu alen của các đa hình này được tổng hợp và trình bày trong Bảng 3.4 và 3.5.
Kết quả Bảng 3.4 chỉ ra tỉ lệ tần suất alen H/L ở nhóm chứng của
điểm đa hình 550C/G là 0,541/0,459 khá cân bằng. Kết quả này khá khác biệt so với nghiên cứu của Madsen H.O. và cộng sự khi khảo sát trên một số quần thể người: 0,833/0,167 của người Eskimos; 0,383/0,617 của người châu Âu và 0,115/0,885 của người châu phi. Tuy nhiên, tỉ lệ tần suất alen X/Y ở nhóm chứng của điểm đa hình 221G/C,A ở nghiên cứu của chúng tôi
là 0,749/0,251 lại khá tương đồng với nghiên cứu của Madsen H.O. và cộng sự: 0,763/0,238 của người châu Âu và 0,730/0,270 của người châu Phi .
Kết quả Bảng 3.5 chỉ ra: trong 3 điểm đa hình trên vùng exon 1 chúng
tôi chỉ
khảo sát được alen hiếm ở
điểm đa hình
codon 54. Còn lại
ở hai
điểm đa hình codon 52 và codon 57 chúng tôi hầu như không khảo sát thấy alen hiếm trong nhóm đối tượng nghiên cứu. Kết quả này cũng khá tương
đồng với nghiên cứu của Garred P. và cộng sự khi các ông khảo sát tần
suất alen
ở 3 điểm đa hình này ở
các quần thể
người khác nhau: người
Châu Âu, châu Phi cận Sahara, châu Á, châu Úc và châu Mỹ . Trong đó,
châu Á, châu Úc và châu Mỹ không phát hiện được alen hiếm của hai điểm đa hình codon 52 và codon 57. Tần suất alen hiếm ở điểm đa hình codon 54 trong nghiên cứu của chúng tôi là 0,112 tương đương với quần thể người Hồng Kông, người Eskimos, người Đan mạch và người Anh lần lượt là 0,11; 0,12; 0,12 và 0,14 cao so với người châu Phi cận Sahara và thấp hơn quần thể người Argentina và Peru .
Ngoài phân tích kiểu gen và kiểu alen của từng đa hình gen MBL2,
chúng tôi còn phân tích tần suất các kiểu gen đơn bội và lưỡng bội của các đa hình này từ đó làm nền tảng đánh giá mối liên quan của chúng với mức độ bệnh và một số biểu hiện lâm sàng, cận lâm sàng trong bệnh sốt xuất huyết Dengue. Kết quả được thể hiện trong các Bảng 3.6 và 3.7.
Khi phân tích kiểu gen đơn bội từ 6 đa hình gen MBL2 chúng tôi đã phát hiện ra 12 kiểu gen đơn bội trong nhóm đối tượng nghiên cứu (Bảng 3.7). Trong đó, LXPA chiếm tỉ lệ cao nhất ở cả nhóm bệnh và nhóm chứng lần lượt là 44,7 % và 43,5 %. Kết quả của chúng tôi khác biệt so với nghiên cứu của Pedroso M. và cộng sự khi ông khảo sát trên nhóm người Brazin gốc Âu hay Bernig T. và cộng sự khảo sát trên người Hà Lan có kết quả là
kiểu gen đơn bội HYPA có tỉ lệ cao nhất chiếm lần lượt 26,5% và 26% , . Ngoài ra, nghiên cứu của chúng tôi còn phát hiện thêm một số kiểu gen đơn bội khác so với các nghiên cứu trên các mẫu thuộc chủng tộc khác như: các kiểu gen đơn bội chúng tôi khảo sát được trên mẫu người Việt Nam chỉ trùng 4/9 kiểu gen đơn bội mà Goeldner I. phát hiện được trên mẫu bệnh nhân Brazil bị viêm khớp dạng thấp hay trùng 4/5 kiểu gen đơn bội mà Liu
C. khảo sát được trên mẫu bệnh nhân Trung Quốc bị nhiễm lao. Sự khác
biệt này cõ lẽ
đến từ
sự khác biệt về
chủng tộc hoặc nhóm đối tượng
bệnh lý khác nhau , .
4.2.2. Về tính đa hình gen FCN2 ở các nhóm đối tượng nghiên cứu
Giống như MBL2, FCN2 cũng là một gen có tính đa hình cao và các đa hình này ảnh hưởng lớn tới nồng độ cũng như hoạt tính protein Ficolin2 trong huyết thanh , , , , , . Các nghiên cứu chỉ ra các đa hình ảnh hưởng lớn tới nồng độ cũng như hoạt tính protein Ficolin2 từ đó ảnh hưởng tới tăng tính nhạy cảm của các cá thể mang đa hình đối với các bệnh lý đặc biệt là bệnh truyền nhiễm tập trung chính ở vùng promoter, exon 7 và exon 8 của gen FCN2. Do đó, trong nghiên cứu này chúng tôi cũng tập trung phân tích tính đa hình gen FCN2 trên các vùng vùng promoter, exon 7 và exon 8. Để
đánh giá mối liên quan giữa tính đa hình gen
FCN2 với mức độ
bệnh và
một số biểu hiện lâm sàng, cận lâm sàng trong bệnh sốt xuất huyết
Dengue, chúng tôi tiến hành giải trình tự gen Sanger hai đoạn gen FCN2 là vùng promoter và vùng exon 7, intron7 và exon 8. Sau đó tiến hành phân tích các đa hình trên 2 đoạn này.
Kết quả khảo sát của chúng tôi được trình bày trong Bảng 3.8 và 3.9.
Kết quả
chỉ
ra: chúng tôi đã khảo sát được
5 đa hình 986G/A, 902G/T,
602G/A, 64A/C, 4A/G trên vùng promoter, và 4 đa hình trên vùng exon 7,
intron7 và exon 8 bao gồm +6031A/G, +6220T/G, +6359C/T, +6424G/T. So với các tác giả khác như Elkoumi M. và cộng sự (2019) hay Kempen G. và cộng sự (2017) chúng tôi đã khảo sát thêm được 3 đa hình: 902G/T ở vùng promoter và +6031A/G, +6220T/G ở vùng exon 7, intron7 , . Các phát hiện thêm này có thể do phương pháp phát hiện khác nhau: Elkoumi M. và cộng
sự đã sử
dụng kỹ
thuật PCR để
xác định các điểm đa hình nên phải xác
định trước các điểm sẽ khảo sát do đó sẽ hạn chế số điểm khảo sát, còn nghiên cứu của chúng tôi sử dụng phương pháp giải trình tự Sanger nên số điểm khảo sát sẽ được nhiều hơn khi so sánh toàn bộ trình tự thu được với trình tự trên gen bank. Sự khác biệt này cũng có thể đến từ sự khác biệt về chủng tộc: người Ai Cập (Elkoumi M. và cộng sự, 2019) hay người Hà Lan (Kempen G. và cộng sự, 2017) so với người Việt Nam trong nghiên cứu của chúng tôi , .
Bên cạnh phân tích tần suất kiểu gen và alen của từng điểm đa hình, chúng tôi còn tái tổ hợp và phân tích tần suất các kiểu gen đơn bội của các đa hình gen FCN2 ở các nhóm nghiên cứu. Các kiểu gen đơn bội chúng tôi phân tích theo 2 tổ hợp: một tổ hợp gồm 3 đa hình exon 7, intron 7 và exon
8 có liên quan đến tăng nguy cơ với bệnh sốt xuất huyết Dengue, một tổ
hợp gồm 8 đa hình gen FCN2 chúng tôi khảo sát được. Kết quả thu được chúng tôi trình bày trong Bảng 3.10 và 3.11. Kết quả chỉ ra: các kiểu gen
đơn bội
ATG và GCGAATCG là kiểu gen đơn bội phổ
biến nhất trong
nhóm đối tượng nghiên cứu của chúng tôi chiếm tỉ lệ lần lượt là 78 % và 52,5 %.
4.2.3. Đặc điểm nồng độ protein MBL, Ficolin2 ở các nhóm đối tượng nghiên cứu
Nhờ có các chức năng: gắn với các vi sinh vật, tương tác với tế bào tự thân bị biến đổi và hoạt hóa hệ thống bổ thể, protein MBL và Ficolin2
có vai trò rất quan trọng đối với cơ
thể. Sự
tăng, giảm nồng độ
MBL,
Ficolin2 hay thay đổi hoạt tính của hai protein này đều có thể ảnh hưởng đến tính nhạy cảm của cơ thể đối với các bệnh lý khác nhau như bệnh lý nhiễm khuẩn, bệnh lý ung thư và bệnh tự miễn dịch. Để đánh giá mối liên quan giữa nồng độ MBL, Ficolin2 với mức độ bệnh và một số đặc điểm
lâm sàng, cận lâm sàng bệnh sốt xuất huyết Dengue chúng tôi tiến hành
định lượng hai protein này trong huyết thanh của các đối tượng trong các nhóm nghiên cứu. Kết quả thu được trình bày trong Bảng 3.12 và 3.13.
Bảng 3.12 và 3.13 đều chỉ
ra trung vị
nồng độ
của cả
MBL và
Ficolin2 ở các nhóm nghiên cứu đều cách khá nhiều so với trung vị 25% và trung vị 75% tương ứng. Kết quả này chỉ ra nồng độ hai protein MBL và Ficolin2 khác nhau khá nhiều giữa các cá thể trong cùng một nhóm nghiên cứu. Điều này có thể giải thích do sự khác biệt về di truyền giữa các cá thể khác nhau bởi lẽ các đa hình gen MBL2 như Ficolin2 có thể ảnh hưởng rất
lớn tới nồng độ chúng , , .
hai protein MBL và Ficolin2 của các cá thể
mang
4.3. Về mối liên quan giữa tính đa hình gen MBL2, FCN2 và nồng độ
MBL, Ficolin2 với mức độ bệnh và một số biểu hiện lâm sàng, cận lâm sàng trong bệnh sốt xuất huyết Dengue
4.3.1. Mối liên quan giữa tính đa hình gen MBL2 và mức độ bệnh, một
số biểu hiện lâm sàng, cận lâm sàng trong bệnh sốt xuất huyết Dengue
Gen MBL2 mã hóa cho protein MBL, protein tham gia hoạt hóa bổ thể theo con đường lectin. Nồng độ và hoạt tính của MBL liên quan đến khả năng hoạt hóa bổ thể bảo vệ cơ thể chống lại các tác nhân gây bệnh. Do đó, các đa hình gen MBL2 làm giảm nồng độ MBL hoặc làm mất hoạt tính MBL có thể liên quan đến tăng tính nhạy cảm của cơ thể đối với các bệnh lý. Có hai vùng trên gen MBL2 có thể ảnh hưởng đến điều này. Vùng thứ nhất là vùng promoter sẽ ảnh hưởng đến nồng độ protein MBL. Bản chất promoter là vùng khởi động, nó như công tắc khởi động quá trình phiên mã của gen. Các trình tự vùng promoter có vai trò hướng dẫn lắp ráp phức hợp tiền phiên mã PIC (pretranscription initiation complex) bao gồm: RNA polymerase và các yếu tố phiên mã khác để thực hiện chức năng phiên mã ra các ARN. Do đó, bất kì một đa hình nào trên vùng promoter gây ảnh hưởng đến khả năng khởi động phiên mã của vùng này đều sẽ ảnh hưởng đến số lượng ARN được phiên mã từ đó ảnh hưởng đến số lượng protein tạo thành. Vùng quan trọng thứ hai trên gen MBL2 và có tính đa hình cao là vùng exon 1. Đây là đoạn gen mã hóa cho vùng giống collagen trên chuỗi MBL. Các MBL hoạt động chức chủ yếu dưới dạngtrimer và tetramer. Để thành lập được dạng này, vai trò của vùng giống collagen rất quan trọng,
bất kì sự
thay đổi trình tự
acid amin nào trong vùng này cũng có thể ảnh
hưởng đến khả năng tạo ra dạng hoạt động của protein MBL. Do đó, tính
đa hình gen trên vùng Exon 1 có thể ảnh hưởng rất lớn tới nồng độ cũng như chức năng của proten MBL.
Thật vậy, có rất nhiều nghiên cứu chỉ ra mối liên quan của tính đa
hình gen MBL2 với các bệnh lý khác nhau như bệnh tự miễn, bệnh ung thư và đặc biệt là các bệnh truyền nhiễm , , . Trong nghiên cứu của mình trên
nhóm bệnh nhân viêm cột sống dính khớp, Graudal N.A. đã chỉ ra ảnh
hưởng của đa hình gen Các cá thể có kiểu gen
MBL2 lên tiến triển của bệnh trên phim X quang.
MBL2 exon 1 O/O có tiến triển bệnh trên phim X
quang nặng nhất, nhẹ hơn là các cá thể mang kiểu gen dị hợp tử A/O và những cá thể mang kiểu gen đồng hợp tử A/A có biểu hiện nhẹ nhất . Hay
ở một nghiên cứu khác,
Mullighan đã chỉ
ra vai trò của các đa hình gen
MBL2 vùng Exon1 và vùng promoter đối với nhiễm trùng nặng ở nhóm
bệnh nhân ghép tế bào gốc. Trong nghiên cứu của mình, Mullighan C.G.
nhận thấy các cá thể mang các đa hình hiếm trên exon 1 sẽ tăng nguy cơ
mắc các bệnh nhiễm trùng nặng sau ghép tế
bào gốc như
viêm phổi vi
khuẩn và nhiễm CMV, ngược lại, các cá thể mang kiểu gen đơn bội HYA có nguy cơ nhiễm trùng nặng sau ghép tế bào gốc thấp hơn đáng kể so với các cá thể còn lại .
Ở các nghiên cứu trên, các tác giả tập trung vào khảo sát 6 điểm đa hình 3 điểm trên vùng promoter là 550C/G; 221G/C,A và +4G/A và 3 điểm đa hình nằm trên vùng exon 1 là codon 52C/T; codon 54G/A và codon 57G/A. Trong nghiên cứu này, để tìm mối liên quan giữa tính đa hình gen MBL2 với mức độ bệnh và một số biểu hiện lâm sàng, cận lâm sàng trong bệnh sốt xuất huyết Dengue, chúng tôi tiến hành tập trung khảo sát 6 điểm
đa hình 3 điểm trên vùng promoter là 550C/G; 221G/C,A và +4G/A và 3
điểm đa hình nằm trên vùng exon 1 là codon 52C/T; codon 54G/A và codon