Về Mối Liên Quan Giữa Tính Đa Hình Gen Fcn2 Và Nồng Độ Protein Ficolin­2 Ở Bệnh Sốt Xuất Huyết Dengue

Mỗi điểm đa hình sẽ

có một vai trò nhất định đến nồng độ

MBL.

Tuy nhiên, khi hợp thành kiểu gen đơn bội thì ảnh hưởng đó sẽ thay đổi

khá nhiều. Do đó, chúng tôi phân tích thêm ảnh hưởng của các kiểu gen

đơn bội đến nồng độ MBL huyết thanh. Chúng tôi biểu diễn kết quả thu được trên hình 3.27. Theo kết quả này, có sự khác biệt rõ ràng về nồng độ

MBL giữa các cá thể mang 5 kiểu gen đơn bội chiếm tỉ lệ cao là LXPA;

HYPA; HXPB; LXPB và HXPA. Trong đó, các cá thể mang kiểu gen đơn bội HXPB có nồng độ MBL huyết thanh thấp nhất còn các cá thể mang kiểu gen đơn bội LXPB có nồng độ MBL huyết thanh cao nhất. Kết quả này kết hợp với kết quả phần 3.3.1 ủng hộ thêm giả thuyết các đa hình gen MBL2 liên quan đến tăng tính nhạy cảm đối với bệnh sốt xuất huyết Dengue chủ yếu thông qua cơ chế thay đổi khả năng nhận diện các tác nhân của protein MBL do làm biến đổi cấu trúc vùng giống collagen của MBL, sự liên quan này ít dựa trên cơ chế thay đổi nồng độ MBL huyết thanh.

4.3.6. Về mối liên quan giữa tính đa hình gen FCN2 và nồng độ protein Ficolin­2 ở bệnh sốt xuất huyết Dengue

Ảnh hưởng của các đa hình gen lên nồng độ và chức năng Ficolin­2 đã được chứng minh trong nhiều nghiên cứu trước đây , . Trong nghiên cứu của mình, Hummelshoj T. đã chỉ ra mức độ Ficolin­2 trong huyết thanh của 76 người bình thường thay đổi đáng kể từ 0,72 đến 6,0 µg/ml với nồng độ trung bình là 3,0 µg/ml. Sự thay đổi nồng độ Ficolin­2 trong huyết thanh có

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 189 trang tài liệu này.

liên quan rõ rệt và có ý nghĩa thống kê với sự hiện diện của các đa hình

trong vùng promoter của gen

Nghiên cứu tính đa hình gen MBL2, FCN2 và nồng độ protein MBL, Ficolin-2 ở bệnh nhân sốt xuất huyết Dengue - 20

FCN2

ở các vị

trí

−986A>G (p = 0,0005),

−602G>A (p = 0,02) và −4A>G (p = 0,01), trong khi không có mối liên

quan giữa các đa hình tại các vị trí −557A>G (p = 0,45) và −64A>C (p =

0,25), hoặc các đa hình nằm trong vùng mã hóa và sự thay đổi nồng độ

Ficolin­2 trong huyết thanh. Các kiểu gen có liên quan đến sự thay đổi nồng độ Ficolin­2 trong huyết thanh cho thấy kiểu hình phụ thuộc vào liều lượng gen, tức là các thể đồng hợp tử có nồng độ Ficolin­2 cao nhất hoặc thấp

nhất, trong khi các thể

dị hợp tử

có nồng độ

trung gian. Bằng kỹ

thuật

ELISA, Hummelshoj T. cũng chỉ

ra nồng độ

Ficolin­2 trong huyết thanh

thực tế

trong mỗi kiểu gen không ảnh hưởng đến khả

năng liên kết của

Ficolin­2 với GlcNAc­BSA. Sự

khác biệt về

khả

năng liên kết đã được

quan sát thấy ở ba đa hình Ficolin­2 được khảo sát, cho thấy sự liên quan giữa các đa hình và chức năng liên kết của Ficolin­2 đối với GlcNAc.

Đa hình +6424G>T (Ala258Ser) liên quan đến tăng khả năng liên kết

khi so sánh với kiểu gen kiểu hoang dã, trong khi đa hình +6359C>T

(Thr236Met) liên quan đến giảm khả năng liên kết khi so sánh với kiểu

hoang dã . Ở một nghiên cứu khác, Munthe­Fog L. và cộng sự chỉ ra nồng độ huyết thanh dao động từ 1,0 đến 12,2 μg/ml, với giá trị trung bình và giá trị trung bình là 5,4 μg/ml. Sự thay đổi nồng độ trong huyết thanh Ficolin­2 có liên quan đáng kể với các đa hình trong vùng promoter của gen FCN2, ở vị trí −986A>G (p < 0,0001), −602G>A (p < 0,0001) và −4A>G (p = 0,0162)

và không có mối liên hệ

nào với SNP

ở vị

trí

−557A>G (p = 0,0535) và

−64A>C (p = 0,3136). Không thấy mối liên hệ đáng kể nào giữa nồng độ Ficolin­2 và đa hình thay thế acid amin ở vị trí +6359C>T (p = 0,3188). Tuy nhiên, nồng độ Ficolin­2 trong huyết thanh có liên quan đáng kể đối với đa hình thay thế acid amin +6424G>T (p = 0,0003). Trong các kiểu gen, thể đồng hợp tử có nồng độ cao nhất hoặc thấp nhất, trong khi thể dị hợp tử

có nồng độ

trung gian. Munthe­Fog

L. cũng phân tích mối liên quan giữa

nồng độ Ficolin­2 trong huyết thanh và kiểu gen đơn bội tạo thành từ bốn

SNP liên quan với nồng độ Ficolin­2 trong huyết thanh (−986A>G,

−602G>A, −4A>G và +6424G>T). Kết quả của nghiên cứu này chỉ ra mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa các kiểu gen đơn bội và nồng độ Ficolin­2 trong huyết thanh .

Trong các nghiên cứu trên các tác giả

đã chỉ

ra 3 đa hình trên vùng

promoter ­986G/A, ­602G/A, ­4A/G có

ảnh hưởng đến nồng độ

Ficolin­2

huyết thanh và 2 đa hình trên exon 8 là +6359C/T và +6424T/G làm thay đổi acid amin ở vùng tận cùng N từ đó làm thay đổi hoạt tính của Ficolin­2. Ở nghiên cứu này, chúng tôi cũng khảo sát 5 đa hình trên. Bên cạnh đó, chúng tôi có khảo sát thêm một số đa hình khác nữa như ­902G/T và 2 điểm trên intron 7: +6031A/G, +6220T/G. Kết quả thu được trình bày trên Hình 3.28 và 3.29. Kết quả của chúng tôi chỉ ra: không thấy mối liên quan giữa các đa hình vùng promoter và đa hình +6359C/T tới nồng độ Ficolin­2 huyết thanh.

Ngược lại, 3 đa hình +6031A/G, +6220T/G và +6424T/G có liên quan tới

thay đổi nồng độ Ficolin­2 huyết thanh. Trong đó, kiểu gen hiếm góp phần làm giảm nồng độ Ficolin­2 huyết thanh, khác biệt có ý nghĩa thống kê với

p < 0,001. Kết quả của chúng tôi khi khảo sát điểm đa hình +6424T/G

tương đồng với các nghiên cứu trước đó . Đáng chú ý, hai điểm đa hình

+6031A/G, +6220T/G nằm trên intron 7 là vùng không mã hóa protein vừa có

liên quan đến tăng nguy cơ với bệnh sốt xuất huyết Dengue vừa gópphần

làm giảm nồng độ Ficolin­2 huyết thanh. Vấn đề này cần nghiên cứu thêm để có thể đánh giá thêm vai trò của các intron trong các bệnh lý.

Ngoài đánh giá ảnh hưởng của từng điểm đa hình lên nồng độ

Ficolin­2, chúng tôi cũng đánh giá ảnh hưởng của 2 tổ hợp kiểu gen đơn

bội lên nồng độ Ficolin­2. Ở tổ hợp thứ nhất, kiểu gen đơn bội được xây

dựng trên 3 điểm đa hình thuộc vùng intron 7 và exon 8: +6031A/G,

+6220T/G và +6424G/T (Hình 3.30), kiểu gen đơn bội GGT được tạo bởi 3

alen hiếm của 3 điểm đa hình này góp phần làm giảm nồng độ Ficolin­2 so với kiểu gen đơn bội ATG. Kết quả này càng chứng minh ảnh hưởng của 3 đa hình này lên nồng độ Ficolin­2 huyết thanh. Ở tổ hợp thứ hai, kiểu gen đơn bội được tạo thành từ 8 đa hình gen FCN2 chúng tôi đã khảo sát được (Hình 3.31), các kiểu gen đơn bội ảnh hưởng khá lớn tới nồng độ Ficolin­2

huyết thanh trong đó kiểu gen GCGAGGCT góp phần tạo ra nồng độ

Ficolin­2 thấp nhất trong các kiểu gen đơn bội khác. Mặc dù, kiểu gen đơn bội này không liên quan đến bệnh sốt xuất huyết Dengue, tuy nhiên chúng ta cũng có thể xem xét nghiên cứu kiểu gen đơn bội này trên các bệnh lý khác. Bởi lẽ, nồng độ thấp của Ficolin­2 có liên quan đến rất nhiều bệnh lý khác nhau.


KẾT LUẬN


Tiến hành nghiên cứu trên 279 bệnh nhân đã được chẩn đoán xác định nhiễm virus Dengue trong đó có 172 bệnh nhân DHF, 107 bệnh nhân DWS và 200 người khỏe mạnh làm nhóm chứng, chúng tôi rút ra kết luận sau:

1. Tính đa hình các gen MBL2, FCN2 và nồng độ protein MBL, Ficolin­2

ở bệnh nhân sốt xuất huyết Dengue

­ Khảo sát được 6 điểm đa hình trên gen MBL2 (­550C/G; ­221 G/C,A,

+4G/A, codon 52; codon 54; codon 57). Phân tích được 4 kiểu gen đơn bội từ tổ hợp ­221 G/C,A, exon 1 và 12 kiểu gen đơn bội từ tổ hợp 6 đa hình.

­ Khảo sát được 8 điểm đa hình trên gen FCN2: ­986G/A; ­902G/T;

­602G/A; ­4A/C, +6031A/G; +6220T/G; +6359C/T, +6424G/T. Phân tích

được 4 kiểu gen đơn bội có tần suất cao ở các nhóm nghiên cứu là

GCGAATCG; GCGAGGCT; GAGAATCG; ACGGATTG

­ Nồng độ

MBL

ở các nhóm DHF, DWS và nhóm chứng lần lượt là

4839,73; 3597,51 và 3833,24 ng/ml.

­ Nồng độ Ficolin­2 ở các nhóm DHF, DWS và nhóm chứng lần lượt là 3087,26; 2181,82 và 1964,1 ng/ml.

2. Mối liên quan giữa tính đa hình gen MBL2, FCN2 và nồng độ protein MBL, Ficolin­2 với mức độ bệnh và một số biểu hiện lâm sàng và cận lâm sàng trong bệnh sốt xuất huyết Dengue

­ Tính đa hình gen MBL2 (codon 54G/A, exon1 O/A, ­550C/G, kiểu gen

lưỡng bội XA/XO và kiểu gen đơn bội LXPB có liên quan với bệnh sốt xuất huyết Dengue.

­ Nồng độ MBL ở các cá thể mang kiểu gen dị hợp tử AO (exon 1) và kiểu gen XX (­221G/C,A) thấp hơn so với các cá thể mang kiểu gen đồng hợp tử AA và YY.

­ Có sự khác biệt về nồng độ MBL huyết thanh giữa các kiểu gen đơn bội. HXPB có nồng độ MBL thấp nhất, LXPB có nồng độ MBL cao nhất.

­ Các điểm đa hình +6031A/G, +6220T/Gvà +6424G/T có liên quan đến tăng nguy cơ mắc bệnh sốt xuất huyết Dengue.

­ Nồng độ Ficolin­2 ở nhóm DHF và DWS cao hơn so với nhóm chứng (p < 0,0001 và p = 0,038), nồng độ Ficolin­2 ở nhóm DHF tăng cao so với nhóm DWS (p < 0,0001).

­ Nồng độ Ficolin­2 thấp hơn ở nhóm IgG và IgM dương tính so với nhóm âm tính.

­ Nồng độ Ficolin­2 tương quan thuận của với số lượng tiểu cầu (r = 0,17; p = 0,005), tương quan nghịch với hoạt độ enzym GOT (r = ­0,19; p = 0,004)

­ Các điểm đa hình +6031A/G, +6220T/G, +6424G/T và kiểu gen đơn bội GGT, GCGAGGCT liên quan đến giảm nồng độ ficolin­2 huyết tương.


KIẾN NGHỊ


Từ những kết quả đạt được trên chúng tôi có một số kiến nghị sau:


­ Sử

dụng nồng độ

Ficolin­2 huyết thanh và các kiểu gen

+6031GG,

+6220GG và +6424TT như các marker tiên lượng mức độ bệnh sốt xuất huyết Dengue.

­ Tiến hành nghiên cứu các kiểu gen và kiểu gen đơn bội của 2 gen MBL2

và FCN2 trên các bệnh lý truyền nhiễm và tự người Việt Nam.

miễn khác ở

quần thể


DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI LUẬN ÁN


1. Ngo Truong Giang, Hoang Van Tong, Trinh Huu Nghia, Hoang Vu Hung, Do Tuan Anh, Le Van Nam,Can Van Mao,Nguyen Truong Giang, Le Dinh Thanh,Ho Anh Son,Thirumalaisamy P.Velavan, Do Quyet, Nguyen Linh Toan (2020). Association of FCN2 polymorphisms and Ficolin­2 levels with dengue fever in Vietnamese patients, International Journal of Infectious Diseases, 95: 253­261.

Xem tất cả 189 trang.

Ngày đăng: 12/05/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí