Nghiên cứu tác động của kiểm soát nội bộ đến hiệu quả tài chính của các doanh nghiệp may mặc Việt Nam - 8


46


2.1.3.3. Các hoạt động kiểm soát

Ramos (2004) và Kaplan (2008) cho rằng hoạt động kiểm soát là tập hợp những chính sách, thủ tục kiểm soát để đảm bảo cho các chỉ thị của nhà quản lý được thực hiện nhằm đạt được các mục tiêu. Theo COSO (2013), hoạt động kiểm soát là tập hợp các chính sách và thủ tục nhằm đảm bảo thực hiện các chỉ thị của nhà quản lý để giảm thiểu rủi ro đe dọa đến việc đạt được mục tiêu của đơn vị. Các chính sách và thủ tục này giúp thúc đẩy các hoạt động cần thiết để giảm thiểu những rủi ro của doanh nghiệp và tạo điều kiện cho các mục tiêu đề ra được thực thi nghiêm túc nhằm đạt hiệu quả trong toàn doanh nghiệp. Hoạt động kiểm soát diễn ra ở mọi cấp độ và mọi hoạt động trong toàn DN.

Hoạt động kiểm soát nếu được phân loại theo mục đích thì có kiểm soát phòng ngữa, kiểm soát phát hiện, kiểm soát bù đắp. Còn nếu phân loại theo chức năng thì gồm: Soát xét của nhà quản lý cấp cao; Quản trị hoạt động; Phân chia trách nhiệm hợp lý; Kiểm soát quá trình xử lý thông tin; Phân tích rà soát; Kiểm soát vật chất. Cùng theo cách phân loại này COSO cũng đã đề xuất một cách phân loại hoạt động kiểm soát trong phạm vi một doanh nghiệp như: đánh giá cấp cao; quản lý hoạt động; xử lý thông tin; hoạt động kiểm soát vật chất; những chỉ số hoạt động; phân chia trách nhiệm.

Theo COSO, Hoạt động kiểm soát cần có quan hệ chặt chẽ với những rủi ro đã được xác định. Cùng với quá trình đánh giá rủi ro, nhà quản trị cần nhận diện và thực thi các hoạt động kiểm soát cần thiết nhằm giảm khả năng xuất hiện và giảm mức độ ảnh hưởng của rủi ro. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thể hiện thông qua hàng loạt các giáo dịch và hoạt động. Vì vậy hoạt động kiểm soát phải hỗ trợ trực tiếp cho việc giảm thiểu rủi ro khi xử lý giao dịch trong tổ chức thông qua các kiểm soát như: xác minh, điều chỉnh, phê duyệt, kiểm soát vật chất, kiểm soát dữ liệu bên ngoài, kiểm soát giám sát.

Ngày nay cùng với sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin thì COSO cũng đã nhấn mạnh tới những thủ tục kiểm soát đối với hệ thống thông tin. COSO chia hoạt động kiểm soát các hệ thống thông tin thành hoạt động kiểm soát chung việc ghi nhận và hoạt động kiểm soát ứng dụng. Trong khi kiểm soát công nghệ chung bao gồm các thủ tục và chính sách kiểm soát áp dụng chung cho toàn bộ môi trường xử lý thông tin như: các hoạt động kiểm soát đối với hạ tầng công nghệ thông tin, hệ thống thông tin, các hệ thống an toàn khác cũng như kiểm soát đối với quy trình lắp đặt, phát triển và duy trì công nghệ tại DN. Hay nói cách khác kiểm soát chung chính là tổ chức bộ máy trong mối trường máy tính, kiểm soát quá trình phát triển hệ thống thông tin,


47

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 331 trang tài liệu này.


chuẩn hóa các tài liệu liên quan, kiểm soát truy cập từ bên ngoài, kiểm soát truy cập lôgic, đảm bảo hoạt động liên tục và có kế hoạch khắc phục hậu quả nếu xảy ra. Mức độ nghiêm ngặt của hoạt động kiểm soát công nghệ chung phụ thuộc vào mức độ phức tạp của công nghệ, rủi ro trong các quy trình kinh doanh mà công nghệ đó hỗ trợ. Thì kiểm soát ứng dụng thủ tục kiểm soát nhập liệu, xử lý và kết xuất áp dụng cho một chương trình ứng dụng xử lý thông tin cụ thể.

Nghiên cứu tác động của kiểm soát nội bộ đến hiệu quả tài chính của các doanh nghiệp may mặc Việt Nam - 8

DN tổ chức triển khai hoạt động kiểm soát thông qua nội dung các chính sách đã được thiết lập theo mục tiêu của DN và các quy trình để đảm bảo những chính sách được vận dụng trong thực tiễn. Nội dung cơ bản của các chính sách kiểm soát phải thể hiện được mục tiêu của chính sách, phạm vi áp dụng, vai trò và trách nhiệm của những người liên quan.

2.1.3.4. Thông tin và truyền thông

Thông tin

Thông tin cần phải đảm bảo tính kịp thời và chính xác khi nhận dạng, thu thập và truyền đạt trong đơn vị dưới hình thức và thời gian phù hợp để đảm bảo tổ chức thực hiện chức năng của mình. Để đảm bảo việc điều hành và kiểm soát đơn vị thì nhiệm vụ của nhà quản lý là phải tạo ra các báo cáo chứa đựng những thông tin. Dinapoli (2007) cho rằng: “Một thông tin có thể được dùng cho nhiều mục tiêu khác nhau, như để lập BCTC, để xem xét việc tuân thủ pháp luật và các quy định, được dùng để điều hành hoạt động SXKD của doanh nghiệp”.

Để giúp cho mọi nhân viên hiểu rò thông điệp từ nhà quản lý cấp cao thì thông tin phải được thực hiện xuyên suốt từ trên xuống dưới và từ dưới lên trên. Thông tin phải luôn được cập nhật để đáp ứng được với những thay đổi trong hoạt động kinh doanh.

Thông tin ngoài đảm bảo về chất lượng thì thông tin còn phải phù hợp với nhu cầu sử dụng. Nhu cầu thông tin được xác định tương ứng với các hoạt động hỗ trợ các bộ phận của KSNB. Việc xác định nhu cầu thông tin sẽ giúp cho nhà quản lý và nhân viên dễ dàng hơn trong việc nhận diện nguồn thông tin và dữ liệu cơ sở phù hợp và đáng tin cậy. Hiện nay, DN có thể tiếp cận với nhiều nguồn thông tin và với sự tiến bộ trong việc thu thập, xử lý và lưu trữ dữ liệu, thông tin có được thường nhiều hơn mức cần thiết dẫn đến việc có những thông tin không phù hợp. Do dó DN cần xây dựng hệ thống thông tin để thu thập, xử lý và lưu trữ số lượng lớn thông tin bên trong và bên ngoài thành những thông tin có nghĩa đáp ứng nhu cầu thông tin đã xác định. Hệ thống thôn tin bao gồm sự kết hợp giữa con người, các quy trình và công nghệ trong nội bộ DN đảm bảo hoạt động cơ bản được quản trị. Hệ thống thông tin được phát triển với


48


các quy trình tích hợp và công nghệ cho phép các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả, tốc độ và khả năng tiếp cận thông tin của người dùng đồng thời có thểm giúp tăng cường kiểm soát nội bộ đối với rủi ro về bảo mật và riêng tư.

Hệ thống thông tin về cơ bản là sự liên kết của nhiều hệ thống con khác nhau nhằm cung cấp thông tin cần thiết đầy đủ, đáng tin cậy và phù hợp cho nhu cầu sử dụng như: hệ thống thông tin sản xuất, hệ thống thông tin tài chính, hệ thống thông tin kế toán,… Trong đó, hệ thống thông tin kế toán là hệ thống chủ yếu và là trung tâm kết nối các hệ thống con khác. Hệ thống thông tin kế toán cần đảm bảo tính có thực, phê chuẩn, tính đầy đủ, chính xác, phân loại và trình bày đúng đắn. Tổ chức thiết kế và vận hành hệ thống kế toán dưới góc độ của KSNB cần phải kể đến hệ thống chứng từ, tài khoản, sổ kế toán và báo cáo kế toán. Nếu như, chứng từ kế toán không chỉ cho phép nhà quản trị kiểm tra, giám sát và ngăn chặn kịp thời các sai phạm mà còn là cơ sở pháp lý của các số liệu kế toán. Thì hệ thống tài khoản kế toán có tác dụng kiểm tra, giám sát các thông tin kinh tế theo các nội dung đã được phân loại một cách thường xuyên liên tục và có hệ thống từ khi các nghiệp vụ kinh tế phát sinh đến khi chúng được báo cáo thành các chỉ tiêu trên báo cáo kế toán. Thông qua việc ghi chép, phân loại, tính toán và tổng hợp số liệu trên sổ kế toán giúp các nhà quản lý kiểm tra và đánh giá sự chấp hành những thủ tục kiểm soát trong quá trình xử lý thông tin. Thông tin trình bày trên báo cáo kế toán là căn cứ để thực hiện việc phân tích, soát xét lại quá trình hoạt động của doanh nghiệp.

Trong giai đoạn hiện nay cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ thì phần mềm quản lý có vai trò cung cấp thông tin một cách chính xác, cụ thể và kịp thời góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của KSNB trong đơn vị. ERP là phần mềm hỗ trợ công tác quản trị, với chức năng chính là tích hợp tất cả phòng ban, mọi chức năng của công ty trong hệ thống máy tính duy nhất để dễ theo dòi nhưng vẫn đáp ứng được khả năng linh hoạt khi xử lý các vấn đề. Ứng dụng ERP giúp doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phí, tăng lợi nhuận, nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển thương hiệu của DN.

Truyền thông

Dinapoli (2007) cho rằng “truyền thông được hiểu là việc trao đổi và truyền đạt các thông tin cần thiết tới các bên có liên quan cả trong lẫn ngoài doanh nghiệp. Bản thân mỗi hệ thống thông tin đều có chức năng truyền thông bởi có như vậy thì những thông tin đã được thu thập và xử lý mới có thể đến được với các đối tượng có nhu cầu


49


để giúp họ thực hiện được trách nhiệm của mình”. Như vậy có thể thấy truyền thông là hoạt động nằm trong hệ thống thông tin. Vì vậy truyền thông phải đảm bảo yêu cầu là diễn ra liên tục nhằm cập nhật, cung cấp và chia sẻ thông tin cần thiết. Truyền thông trong đơn vị có thể chia thành hai loại là: truyền thông nội bộ và truyền thông bên ngoài. Trong đó, truyền thông nội bộ là cách thức truyền thông hai chiều thể hiện được việc truyền đạt thông tin từ nhà quản lý đến từng nhân viên để thực hiện nhiệm vụ của mình và cách thức phản hồi các ý kiến đề xuất của từng nhân viên cho nhà quản lý của đơn vị. Truyền thông ra bên ngoài là cách thức truyền đạt thông tin từ đơn vị cho các đối tượng quan tâm bên ngoài doanh nghiệp như: khách hàng, ngân hàng, nhà cung cấp, cơ quan quản lý nhà nước, các cổ đông. Du bằng hình thức nào thì truyền thông luôn phải giúp nhân viên và các bên liên quan trong DN hiểu đầy đủ về cách thức hoạt động của các kênh truyền thông, hiểu rò một vấn đề cụ thể có thể báo cáo lên cấp nào trong DN. DN nên duy trì kênh thông tin báo cáo trực tiếp, ẩn danh cho ban quản trị, trường bộ phận kiểm toán nội bộ.

2.1.3.5. Giám sát

Spinger (2004) và Kaplan (2008) đã cho rằng giám sát là bộ phận cuối cùng của KSNB, là quá trình đánh giá chất lượng của KSNB theo thời gian. Hoạt động giám sát được DN lựa chọn, phát triển và thực hiện nhằm đánh giá rằng liệu từng yếu tố trong năm yếu tố của KSNB có thực sự tồn tại và hoạt động hiệu quả không. Giám sát có một vai trò quan trọng, nó giúp KSNB luôn hoạt động hữu hiệu. COSO cho rằng việc thiết lập hoạt động giám sát phù hợp sẽ tạo ra sự hoàn chỉnh trong quy trình khép kín của KSNB. Quá trình giám sát được thực hiện bởi những người có trách nhiệm nhằm đánh giá việc thiết lập và thực hiện các thủ tục kiểm soát.

Giám sát gồm 2 loại là: giám sát thường xuyên và giám sát định kỳ. Trong đó giám sát thường xuyên xuất hiện trong mọi hoạt động diễn ra hàng ngày bao gồm: các quy định về hoạt động quản lý, hoạt động giám sát và các hoạt động khác. Hoạt động giám sát thường xuyên liên tục được thực hiện bởi giám đốc sản xuất, nhà quản lý chức năng với đủ năng lực giám sát và đủ kiến thức để đánh giá một cách toàn diện thông tin mà họ có được. Ngoài ra, DN có thể sử dụng công nghệ để hỗ trợ hoạt động giám sát sẽ đảm bảo tính khách quan và giúp việc rà soát lại số lượng lớn các dữ liệu, thông tin với chi phí thấp. Trên cơ sở đánh giá rủi ro và hiệu quả của giám sát thường xuyên để tiến hành xác định phạm vi và tần xuất thực hiện giám sát định kỳ. Giám sát định kỳ cần được thực hiện bởi nhà quản trị, kiểm toán nội bộ hoặc các tổ chức độc lập bên ngoài. Giám sát là một trong năm thành phần của KSNB như một vòng tuần hoàn, giám sát giúp cho việc cải thiện hoạt động kiểm soát, hệ thống thông tin, đánh giá rủi


50


ro và môi trường kiểm soát. Hoạt động giám sát giúp chỉ ra điểm yếu, điểm hạn chế chưa phù hợp hay điểm cần cập nhật điều chỉnh của KSNB nên rất cần một bộ máy và cơ chế giải trình, báo cáo cho phép việc trình báo kịp thời và hiệu quả những vấn đề, những tồn tại đã phát hiện. Bên cạnh đó, Nhà quản trị cần có cơ chế khuyến khích để nhân viên tự giám sát và tự báo cáo sai phạm do họ phát hiện được.

2.2. Hiệu quả tài chính

2.2.1. Khái niệm

Hiệu quả tài chính là một trong những khái niệm quan trọng trong chiến lược kinh doanh và quản lý của doanh nghiệp. Mặt khác, hiệu quả tài chính là mục tiêu mà tất cả các công ty phải cải thiện để tồn tại hay để thỏa mãn yêu cầu của các đối tượng quan tâm đến công ty. Cho đến nay có rất nhiều tài liệu và nghiên cứu xem xét hiệu quả tài chính như biến phụ thuộc chính, nhưng vẫn chưa có định nghĩa chính xác và phổ biến về hiệu quả tài chính. Bên cạnh đó các nghiên cứu liên quan đến hiệu quả tài chính cho kết quả khác nhau do các nghiên cứu có xu hướng sử dụng chỉ một hoặc một số chỉ số để đại diện cho hiệu quả tài chính.

Do hiệu quả công ty là một khái niệm phức tạp, tùy thuộc vào hướng tiếp cận, có nhiều quan điểm khác nhau về hiệu quả. Theo từ điển Hán - Việt thì “hiệu quả là kết quả đích thực hay kết quả tốt đúng như mong muốn”. Yamamoto & Watanabe (1989) cho rằng tính hiệu quả là việc so sánh giữa các yếu tố đầu vào và đầu ra, muc đích chính là quản lý các nguồn lực sao cho tối đa hóa kết quả đầu ra với nguồn lực không đổi. Hiệu quả trong doanh nghiệp không chỉ đề cập đến kết quả đạt được mà còn đề cập đến chất lượng hoạt động của tổ chức. Mặt khác, bản chất của tài chính doanh nghiệp là dùng tiền để giải quyết các mối quan hệ như tổ chức, huy động, phân phối, sử dụng và quản lý vốn trong quá trình kinh doanh. Như vậy hiệu quả tài chính đề cập đến thành tựu của hoạt động tài chính trong doanh nghiệp. Hiệu quả tài chính đề cập đến sức khỏe tài chính của doanh nghiệp. Theo IFRS foundation thì “hiệu quả tài chính là các hành vi thực hiện các hoạt động tài chính”. Theo nghĩa rộng thì hiệu suất tài chính đề cập đến mức độ mà mục tiêu tài chính đã và đang được thực hiện. Theo Trương Bá Thanh và Trần Định Khôi Nguyên (2001) cho rằng hiệu quả tài chính là hiệu quả của việc huy động, sử dụng và quản lý nguồn vốn trong doanh nghiệp. Theo Mishkin (2007) cho rằng hiệu quả tài chính là thước đo các chính sách và hoạt động của công ty bằng tiền. Theo Phạm Thị Kiều Trang (2017) cho rằng “Hiệu quả tài chính là một phạm trù kinh tế phản ánh những lợi ích đạt được thông qua hoạt động kinh doanh của các công ty”.


51


Có thể tóm lại, tài chính doanh nghiệp là toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp liên quan đến việc huy động hình thành nên nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn để tối đa hóa giá trị doanh nghiệp. Xuất phát từ khái niệm của tài chính doanh nghiệp thì hiệu quả tài chính doanh nghiệp có thể được hiểu là hiệu quả gắn liền đến việc huy động hình thành nên nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn để tối đa hóa giá trị doanh nghiệp.

2.2.2. Đo lường hiệu quả tài chính

Theo Almajali và cộng sự (2012) cho rằng có rất nhiều thước đo tài chính khác nhau để đo lường HQTC trong doanh nghiệp như: khả năng sinh lời, giá trị doanh nghiệp, giá trị thị trường của cổ phiếu, giá trị dự án, khả năng thanh toán,... Tuy nhiên, các chỉ tiêu này có thể chia thành 2 loại: các chỉ tiêu tài chính cổ điển và các chỉ tiêu tài chính hiện đại.

- Các chỉ tiêu tài chính cổ điển:

Để đo lường hiệu quả tài chính, các nhà phân tích thường dựa trên cơ sở dữ liệu là các báo cáo tài chính của các doanh nghiệp để đánh giá được hoạt động của doanh nghiệp ở hiện tại, quá khứ và dự báo tài chính cho tương lai. Các chỉ tiêu cổ điển bao gồm các chỉ tiêu phản ánh sức sản xuất và sức sinh lợi bằng cách lấy các chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh chia cho nhóm chỉ tiêu phản ánh chi phí hoặc yếu tố đầu vào như sau:

+ Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lợi.

Nhóm các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời như: doanh thu, tỷ suất sinh lời trên doanh thu (ROS), tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản (ROA), tỷ suất sinh lời trên tổng vốn chủ sở hữu (ROE). Trong đó hệ số ROA và ROE phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh hiện tại và phản ánh khả năng lợi nhuận mà doanh nghiệp đã đạt được trong quá khứ. Như vậy, nhóm này là cách nhìn về quá khứ hoặc đánh giá khả năng lợi nhuận ngắn hạn của doanh nghiệp (Hu và Izumida, 2008). Bên cạnh đó, một số chỉ tiêu cùng nhóm như ROS hoặc ROI, là các thước đo quá khứ và ngắn hạn mà không đưa ra một cái nhìn dài hạn cho cổ đông, lãnh đạo doanh nghiệp. (Jenkins và cộng sự, 2011)

Tỷ suất sinh lời của tài sản (ROA)

Chỉ tiêu này thể hiện khả năng tạo ra lợi nhuận sau thuế của tài sản mà doanh nghiệp sử dụng cho hoạt động kinh doanh, chỉ tiêu này được tính như sau:


52



Tỷ suất sinh lời của tài sản (ROA) =

Lợi nhuận sau thuế Tổng tài sản bình quân

Chỉ tiêu này cho biết doanh nghiệp bỏ ra 1 đồng tài sản đầu tư thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Chỉ tiêu này càng cao, chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài sản càng tốt.

Tỷ suất sinh lời của vốn chủ sở hữu (ROE)

Chỉ tiêu này phản ánh một đơn vị vốn đầu tư của chủ sở hữu đem lại bao nhiêu đơn vị lợi nhuận sau thuế. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp càng tốt và góp phần nâng cao khả năng đầu tư của chủ doanh nghiệp, chỉ tiêu này được tính như sau:


Tỷ suất sinh lời của vốn chủ sở hữu(ROE) =

Lợi nhuận sau thuế

Tổng vốn chủ sở hữu bình quân

Chỉ tiêu này cho biết khi chủ sở hữu bỏ ra 1 đồng vốn để đầu tư thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế, chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ vốn chủ sở hữu càng tạo ra nhiều lợi nhuận.

Tỷ suất sinh lời của doanh thu (ROS)

Chỉ tiêu này cho biết một đồng doanh thu mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế cho doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả tài chính của doanh nghiệp càng tốt và ngược lại.


Tỷ suất sinh lời của doanh thu (ROS) =

Lợi nhuận sau thuế Tổng doanh thu (DTT)

+ Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng tài sản

Thể hiện qua các chỉ tiêu có liên quan rất chặt chẽ với tài sản phản ánh trên bảng cân đối kế toán với doanh thu thuần trên báo cáo kết quả kinh doanh. Bao gồm các chỉ tiêu sau: hiệu quả sử dụng tổng tài sản, hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn, hiệu quả sử dụng tài sản dài hạn, hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu (Nguyễn Ngọc Quang, 2011; Nguyễn Năng Phúc, 2014).

+ Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng chi phí

Chi phí trong kỳ của doanh nghiệp thường bao gồm: Chi phí bán hàng, chi phí quản lý, chi phí tài chính, giá vốn hàng bán, chi phí khác. Vì vậy để đánh giá hiệu quả sử dụng chi phí người ta thường tính toán các tỷ suất lợi nhuận từ chi phí thông qua


53


báo cáo kết quả kinh doanh. Các chỉ tiêu như sau: tỷ suất sinh lợi của GVHB, tỷ suất sinh lợi của CPBH, tỷ suất sinh lợi của CPQLDN, tỷ suất sinh lợi của tổng chi phí (Nguyễn Ngọc Quang, 2011; Nguyễn Năng Phúc, 2014).

+ Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng lao động

Năng suất lao động được dùng để đánh giá việc sử dụng lao động. Năng suất lao động có thể được đo bằng các yếu tố đầu ra như: sản lượng sản xuất, doanh thu hoặc chi phí. Tuy nhiên khi xét về mặt tài chính thì yếu tố đầu ra được đo lường bằng doanh thu hoặc lợi nhuận của doanh nghiệp (Nguyễn Ngọc Quang, 2011; Nguyễn Năng Phúc, 2014).

Lợi nhuận (Doanh thu thuần)

Hiệu quả sử dụng lao động =

Tổng số lao động bình quân

Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ phân tích thì bình quân 1 lao động trong doanh nghiệp sẽ tạo được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng lao động càng tốt

- Các chỉ tiêu tài chính hiện đại

Nếu như các chỉ tiêu cổ điển chủ yếu cung cấp thông tin về hiệu quả tài chính của doanh nghiệp trong quá khứ thì theo Abdel Shahid (2003), Gompers và cộng sư (2003), Nguyễn Ngọc Quang (2011), Nguyễn Năng Phúc (2014) nhóm các chỉ tiêu tài chính hiện đại như: thu nhập trên mỗi cổ phiếu (EPS), Tobin’s Q, trị giá cổ phiếu,... lại cho biết hiệu quả tương lai của công ty.

+ Thu nhập một cổ phiếu (EPS): chỉ tiêu này cho biết lợi nhuận trên một cổ phiếu. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả tài chính của DN càng cao

Lợi nhuận sau thuế

Thu nhập mỗi cổ phiếu =


+ Tobin’s Q


Số lượng cổ phiếu đang lưu hành

Chỉ tiêu này cho biết giá trị thị trường của các khoản nợ và vốn cổ phần trên tổng giá trị tài sản. Chỉ tiêu này được Brainard và Tobin giới thiệu năm 1968 sau đó được Gompers và cộng sự điều chỉnh công thức tính cho phù hợp với điều kiện thu thập số liệu vào năm 2003. Chỉ tiêu này được sử dụng để đánh giá tốt về HQTC của các công ty niêm yết.


Tobin’s Q =

Tổng tài sản + GTTT của VCP – GTSS củ VCP – Thuế thu nhập hoãn lại

Tổng tài sản

Xem tất cả 331 trang.

Ngày đăng: 12/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí