Xây Dựng Cơ Cấu Bộ Máy Của Trung Tâm Giao Dịch Ngoại Tệ


126


Bước thứ ba chúng ta nên khuyến khích khách hàng thử nghiệm giao dịch này. Trong các buổi hội thảo, nên cho khách hàng xem tỷ giá giao dịch trực tiếp và thử đặt các lệnh mua bán quyền chọn ngoại tệ để họ nắm rõ lý thuyết đồng thời phân tích những rủi ro cũng như lợi nhuận có thể đạt được khi sử dụng và kinh doanh nghiệp vụ này. Điều quan trọng là để khách hàng thấy đựợc lợi ích cũng như khả năng sinh lời từ nghiệp vụ này để người có nhu cầu sẽ thực hiện giao dịch và người chưa có nhu cầu sẽ phát sinh nhu cầu.

Bước thứ tư, khi khách hàng bắt đầu thực hiện những giao dịch nghiệp vụ quyền chọn, chúng ta luôn hợp tác khách hàng để giúp họ đạt được lợi ích cao nhất như cung cấp những thông tin mới nhất, kịp thời nhất và tư vấn phương án hiệu quả.

Ngân hàng cần phối hợp với các chuyên gia tài chính, chuyên gia marketing, sự hỗ trợ từ các trường đại học để có thể thực hiện tốt từng bước phát triển nhu cầu thị trường như trên.

Các NHTM nên xác lập trong nội dung hợp đồng quyền chọn thêm quyền được mua ngoại tệ khi doanh nghiệp không thực hiện quyền lựa chọn, do đối với các doanh nghiệp nhập khẩu của Việt Nam khi thực hiện hợp đồng quyền lựa chọn ngoài ý nghĩa về phòng ngừa rủi ro tỷ giá hối đoái còn có nhu cầu cần đảm bảo có đủ số lượng ngoại tệ để thanh toán các hợp đồng nhập khẩu khi đến hạn.

3.2.2.2. Xây dựng cơ cấu bộ máy của trung tâm giao dịch ngoại tệ


Như đã trình bày ở chương 2, hiện nay các NHTM Việt Nam chưa có một trung tâm giao dịch ngoại tệ theo đúng tiêu chuẩn quốc tế, vì vậy nên sớm xây dựng các trung tâm giao dịch ngoại tệ với đủ 3 bộ phận như sau:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 159 trang tài liệu này.

- Bộ phận giao dịch kinh doanh (front office) là bộ phận trực tiếp đưa ra những quyết định kinh doanh và là yếu tố quyết định đến kết quả kinh doanh của trung tâm giao dịch ngoại tệ. Những cán bộ của bộ phận giao dịch kinh doanh phải luôn theo sát thị trường và phải có một độ nhạy bén nhất định để có thể đưa ra những quyết định kinh doanh sáng suốt và có hiệu quả. Hơn nữa họ phải là những con người trung thực và có ý thức kỷ luật cao.


Nghiên cứu phát triển nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ tại các ngân hàng thương mại Việt Nam - 17

127


- Bộ phận kiểm soát rủi ro (Middle office) là bộ phận có trách nhiệm kiểm soát giám sát hoạt động của các giao dịch viên tại Bộ phận giao dịch kinh doanh. Một trung tâm giao dịch ngoại tệ thương quy định rất khắt khe về quy trình thực hiện giao dịch, về những hạn mức mà giao dịch viên được phép kinh doanh. Và bộ phận kiểm soát rủi ro hình thành với mục tiêu đảm bảo tất cả những quy định đó được tuân thủ một cách nghiêm túc. Trường hợp có bất cứ một sự vi phạm nào, bộ phận kiểm soát rủi ro phải phát hiện ra và đưa ra những hình thức ngăn chặn hoặc xử lý thích hợp.

- Bộ phận kế toán hạch toán (Back office) với chức năng hạch toán tất cả những giao dịch kinh doanh ngoại tệ mà bộ phận giao dịch kinh doanh thực hiện. Back office còn có chức năng đối chiếu lệnh xác nhận từ phía ngân hàng đối tác đảm bảo khớp đúng. Bộ phận kế toán hạch toán phải theo dõi những khoản giao dịch đó đảm bảo việc thanh toán chuyển tiền được thực hiện đúng theo hợp đồng.

Sự phối hợp giữa các bộ phận này phải nhịp nhàng và thống nhất. Sự nhịp nhàng và thống nhất thể hiện ở chỗ khi những giao dịch phát sinh tại bộ phận giao dịch kinh doanh thì ngay lập tức bộ phận kiểm soát phải được cập nhật và nắm bắt để có thể kiểm định những hạn mức trong kinh doanh ngoại tệ, phục vụ khách hàng kịp thời, nhanh chóng và vì vậy sẽ thu hút được nhiều khách hàng.

3.2.2.3. Đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng


Trong bất kỳ tình huống nào con người vẫn là nguồn nhân tố quan trọng nhất và tiên quyết nhất đối với các hoạt động kinh tế xã hội. Đứng trước sự phát triển như vũ bão của khoa học, công nghệ thông tin và sự cạnh tranh gay gắt giữa các tổ chức tài chính ngân hàng, phi ngân hàng, để tận dụng được cơ hội, nắm bắt tri thức mới của thời đại thì vấn đề có ý nghĩa quyết định chính là đội ngũ nhân lực của ngân hàng. Việc phát triển nguồn nhân lực của các NHTM có một tầm quan trọng đặc biệt vì đặc thù chung của hoạt động ngân hàng. Để sử dụng một cách có hiệu quả các công cụ tài chính phái sinh trong việc phòng ngừa rủi ro tại các NHTM đòi hỏi các ngân hàng phải thực sự quan tâm đến công tác tuyển dụng và đào tạo đội


128


ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn tốt, am hiểu những kiến thức về kinh tế, tài chính, pháp lý, đặc biệt là kỹ thuật định giá và giao dịch các công cụ tài chính phái sinh trong đó có quyền chọn tiền tệ.

Trước hết, các NHTM cần tổ chức các chương trình đào tạo nhằm trang bị những kiến thức chuyên môn, kỹ thuật về các nghiệp vụ phái sinh cho nhân viên ngân hàng, mời những chuyên gia trong và ngoài nước giỏi về nghiệp vụ này tham gia giảng dạy. Nếu có điền kiện có thể cử một số nhân viên có khả năng đi nghiên cứu tại nước ngoài để có điều kiện học hỏi không chỉ về lý thuyết mà cả thực tiễn thực hiện nghiệp vụ này tại ngân hàng. Để cán bộ, nhân viên thực sự quan tâm đến việc học tập và nâng cao trình độ chuyên môn, các ngân hàng cần có cơ chế khuyến khích bằng cách hỗ trợ một phần hoặc toàn bộ kinh phí, thực hiện chế độ khen thưởng, đề bạt đối với những nhân viên học tập đạt kết quả tốt và có khả năng vận dụng tốt trong thực tế công tác. Bên cạnh đó, để nhân viên ngân hàng thực hiện tốt công việc của mình cần phải được đào tạo cả về tin học, ngoại ngữ nhằm giúp cho nhân viên ngân hàng sớm tiếp cận nắm bắt được công nghệ tiên tiến.

Sau nữa, các ngân hàng cần có chính sách tuyển dụng đúng đắn nhằm thu hút những sinh viên giỏi về làm việc. Để thực hiện được điều này ngân hàng nên có những chính sách cụ thể thu hút, trọng dụng người tài (như đãi ngộ cán bộ ngân hàng làm theo năng lực, trình độ, hiệu quả công việc…), tạo điều kiện để các sáng kiến của nhân viên được phát huy có hiệu quả.

3.2.2.4. Đưa phí quyền chọn tiền tệ trở thành một lợi thế cạnh tranh


Như những gì đã phân tích trong chương 2 sở dĩ các doanh nghiệp, cá nhân còn thờ ơ với công cụ quyền chọn tiền tệ một phần là vì họ cho rằng mức phí quyền chọn còn cao do các NHTM Việt Nam chưa ứng dụng được các mô hình chiến lược kinh doanh quyền chọn tiền tệ đã nêu ở chương 1 để có thể giảm phí quyền chọn tương đối bằng so với các ngân hàng nước ngoài. Bên cạnh đó, trong giai đoạn đầu tạo lập thị trường, thiết nghĩ các ngân hàng không nên đặt nặng vấn đề lợi nhuận. Mục tiêu của chúng ta hiện nay là thu hút được khách hàng tham gia vào thị trường.


129


Chính vì vậy, mức phí thấp hơn so với các ngân hàng khác sẽ là một chiêu thức thu hút, hấp dẫn giới doanh nghiệp, những nhà đầu tư và những ai quan tâm đến thực hiện thử nghiệm công cụ quyền chọn tiền tệ cho mục đích phòng ngừa rủi ro và kinh doanh sinh lời. Sau khi được tiếp cận với thực tế, khách hàng sẽ nhận thức thêm được sự bất ổn của thị trường và những lợi ích đem lại cho họ từ nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ. Từ đó, nhu cầu sử dụng công cụ này sẽ cao hơn và đa dạng hơn. Vì vậy, việc xác định một mức phí quyền chọn hấp dẫn khách hàng là việc mà ngân hàng cần nghĩ đến.

Bên cạnh đó, việc định giá quyền chọn cũng là một khâu khá quan trọng và phức tạp. Tuy nhiên, ứng dụng công nghệ tin học để đánh giá quyền chọn sẽ giúp chúng ta đơn giản hóa được rất nhiều và tiết kiệm được thời gian làm việc, chúng ta chỉ cần cung cấp những thông tin cơ bản, phần mềm sẽ tự động xử lý, phân tích và cho kết quả chính xác. Do đó, các ngân hàng cần trang bị thêm những phần mềm tính toán chuyên nghiệp để nhanh chóng trong quá trình tính phí quyền chọn cho khách hàng, hỗ trợ cho việc theo dõi hạn mức giao dịch của các nhân viên kinh doanh ngoại tệ và hạn mức khách hàng đặc biệt khi thị trường phát triển với những quyền chọn đa dạng theo nhu cầu ngày càng nhiều của khách hàng.

3.2.2.5. Hoàn thiện các quy trình, quy chế của nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ


Các quy trình, quy chế thực hiện nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ hiện nay chưa hoàn chỉnh và cần sớm ban hành. Như trong chương 2 đã nêu về tình hình phát triển nghiệp vụ quyền chọn tiền ở Vietcombank, hiện nay Vietcombank vẫn đang trong quá trình xây dựng quy trình và dự kiến phải đến đầu năm 2009 mới có thể ban hành được quy trình về nghiệp vụ này. Tuy được bắt đầu thực hiện từ cách đây vài năm nhưng cho đến nay mới chỉ có thỏa thuận chung về nghiệp vụ này, quy trình, quy chế chính thức đang trong thời gian chỉnh sửa. Để phát triển hơn nữa nghiệp vụ này, các ngân hàng cần khẩn trương hoàn thiện để có sự quản lý chặt chẽ và thống nhất.


130


Về quyền chọn tiền đồng, do vẫn trong thời gian thực hiện thí điểm nên phạm vi thực hiện nghiệp vụ này thường chỉ ở Hội sở chính của các ngân hàng. Trong thời gian tới, nên cho phép thực hiện quyền chọn tiền đồng ở các chi nhánh để tìm kiếm được nhiều khách hàng cũng như thuận lợi cho khách hàng ở các quận huyện trong thành phố cũng như ở các tỉnh thành. Bởi vì, rủi ro tỷ giá là rủi ro mà tất cả các doanh nghiệp, tổ chức đều phải đối mặt, vậy thì tại sao chỉ có các doanh nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh mới có điều kiện thực hiện. Các doanh nghiệp ở địa phương muốn thực hiện thì quả là vất vả khi mà nghiệp vụ này chỉ thực hiện tại Hội Sở chính.

3.2.2.6. Tuyên truyền, phổ biến rộng rãi về những ưu việt của các công cụ phái sinh trong đó có quyền chọn tiền tệ

Để hình thành và phát triển nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ thì điều cần thiết là các doanh nghiệp vừa là đối tác vừa là khách hàng của các NHTM phải được trang bị kiến thức nhất định về thị trường các công cụ phái sinh trong đó có quyền chọn tiền tệ, định giá các công cụ phái sinh, sử dụng các công cụ đó để phòng ngừa rủi ro nói chung và rủi ro về tỷ giá nói riêng.Vì vậy các NHTM cần phải tuyên truyền, hướng dẫn và tư vấn cho các doanh nghiệp về vai trò và tầm quan trọng của nghiệp vụ này cũng như các vấn đề kỹ thuật có liên quan. Trên thực tế, nhiều NHTM trên thế giới đã giới thiệu về các sản phẩm phái sinh trên các trang web của ngân hàng nhằm nâng cao khả năng tiếp cận của khách hàng đối với sản phẩm này. Trong điều kiện của Việt Nam, do những hạn chế nhất định về công nghệ nên ngoài phương pháp giới thiệu sản phẩm trên mang, các ngân hàng có thể sử dụng các hình thức khác như xây dựng cẩm nang, tờ rơi, tổ chức hội thảo, hội nghị khách hàng…nhằm giới thiệu về những sản phẩm mới này. Bên cạnh đó, trung tâm đào tạo của các ngân hàng cũng có thể mở những lớp tập huấn ngắn ngày cho các khách hàng để họ hiểu được những kiến thức cơ bản về kỹ thuật, công dụng…của các nghiệp vụ phái sinh nói chung và nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ nói riêng.


131


Các kiến nghị trên là những điều cơ bản, cần thiết giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam có thêm công cụ phòng ngừa rủi ro hối đoái, cũng là bước chuẩn bị cho các doanh nghiệp quen dần với môi trường kinh doanh tài chính quốc tế. Đây cũng là vấn đề mang tính chất chiến lược góp phần vào việc hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong quá trình phát triển và hội nhập quốc tế.

3.2.2.7. Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng


Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, công nghệ ảnh hưởng quyết định tới việc phát triển sản phẩm, chất lượng sản phẩm và phương thức phân phối sản phẩm cũng như khả năng quản lý hoạt động kinh doanh ngân hàng. Đặc biệt trong quá trình thực hiện nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ, công nghệ có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình cung cấp, xử lý thông tin để đi đến quyết định trong các giao dịch, ảnh hưởng đến kết quả tính toán và quá trình thanh toán, cũng như quá trình kiểm soát rủi ro. Chính vì vậy, để hình thành và phát triển nghiệp vụ này đòi hỏi các NHTM cần có những đầu tư nhất định để hiện đại hoá công nghệ.

Trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng, quá trình tin học hoá đang được nhanh chóng triển khai, các hoạt động ngân hàng được nối mạng với nhau cung cấp dịch vụ 24/24 giờ, đồng thời nâng cao được hiệu quả phục vụ khách hàng và quản lý vốn. Tuy nhiên, cho đến nay, so với các nước trong khu vực thì công nghệ của các NHTM Việt Nam vẫn còn nhiều tồn tại yếu kém. Các NHTM chưa đủ trình độ thiết kế tổng thể, còn nhiều hệ thống ứng dụng tự phát triển và mang tính tạm thời để phục vụ yêu cầu trước mắt, đặc biệt là các NHTM cổ phần. Do đó, việc kiểm soát gặp nhiều khó khăn, hệ thống cơ sở dữ liệu chồng chéo và hệ thống có nhiều rủi ro. Đặc biệt là không có nền tảng để phát triển hoặc mở rộng các ứng dụng mới. Công nghệ lạc hậu không những hạn chế khả năng cung ứng các dịch vụ mới của các NHTM Việt Nam mà còn làm giảm đi hiệu quả quản lý của các nhà lãnh đạo ngân hàng. Chính vì vậy, hiện đại hoá ngân hàng là mục tiêu hết sức cấp thiết đối với NHTM trong thời gian tới để phát triển nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ.


132‌


3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ


3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ


Quyền chọn tiền tệ nói riêng và các nghiệp vụ phái sinh nói chung là loại hình kinh doanh còn nhiều mới mẻ, có những đòi hỏi khắt khe về môi trường pháp lý. Điều này là do tính hấp dẫn của bản thân đồng tiền và mức độ rủi ro luôn đi kèm trong hoạt động kinh doanh. Chính vì vậy, các văn bản pháp lý quản lý trong lĩnh vực này phải xây dựng đầy đủ nhưng cũng cần phải thường xuyên điều chỉnh và thay đổi cho phù hợp với tình hình thực tế.

Để góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện cán cân kinh tế, từng bước thực hiện khả năng chuyển đổi của đồng Việt Nam trong các hoạt động ngoại hối và hoàn thiện hệ thống quản lý ngoại hối của Việt Nam, hiện nay Pháp lệnh Ngoại hối đã có hiệu lực thi hành từ tháng 06/2006, vì vậy các văn bản hướng dẫn như Thông tư cũng cần nhanh chóng ra đời để tạo hành lang pháp lý cụ thể, chi tiết cho các ngân hàng và các chủ thể tham gia trên thị trường ngoại hối Việt Nam. Vì nếu thực hiện kéo dài sẽ ảnh hưởng tới tình hình kinh doanh, thực hiện đa dạng hóa các hình thức giao dịch ngoại tệ của các NHTM.

Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, chính sách ngoại hối lại càng có vị trí quan trọng, làm sao để vừa tranh thủ các nguồn vốn quốc tế, thúc đẩy các hoạt động thương mại, du lịch, kiều hối, đầu tư… nhưng lại bảo đảm được chủ quyền của đồng Việt Nam, thực hiện được các mục tiêu của chính sách tiền tệ.

Trong những năm gần đây, chính sách quản lý ngoại hối của Việt Nam đã có những đổi mới quan trọng như giảm tỷ lệ kết hối xuống bằng 0%, các doanh nghiệp và các tổ chức có toàn quyền sử dụng số ngoại tệ trên tài khoản, người nhận kiều hối không bắt buộc phải bán ngoại tệ cho ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ủy quyền cho cho chi nhánh Ngân hàng Nhà nước cấp phép cũng như tăng hạn mức mang ngoại tệ ra nước ngoài, tự do hóa lãi suất ngoại tệ, nới lỏng biên độ giao dịch tỷ giá giữ NHTM với khách hàng…Những thay đổi đó đã đem đến những thành công rất ấn tượng như lượng kiều hối chuyển về nước tăng đột biến và đạt


133


gần 7 tỷ USD trong năm 2007. Dự trữ ngoại hối quốc gia được tăng cường, từ chỗ đạt chỉ vài chục triệu USD trong những năm cuối thập kỷ 80 đến năm 2008 đã đạt trên 20 tỷ USD đảm bảo đủ để can thiệp thị trường khi có bất trắc.

Tuy nhiên nhìn nhận lại thì chính sách quản lý ngoại hối của nước ta vẫn còn những bất cập nhất định so với yêu cầu của thực tiễn. Yêu cầu đặt ra về hoàn thiện chính sách quản lý ngoại hối là vừa phải khắc phục được những tồn tại, đồng thời phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế. Trước hết cần thiết phải có biện pháp về lãi suất, điều hành tỷ giá, tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ… để tạo ra những hấp dẫn cần thiết về lợi ích kinh tế cho các doanh nghiệp để họ thực hiện các giao dịch về ngoại tệ với ngân hàng. Cần phải chấp thuận một thực tế là có thể giảm tình trạng Đô la hóa trong xã hội nhưng sẽ tăng tình trạng Đô la hóa tài sản có trong các NHTM. Tức là thu hút tối đa ngoại tệ trong xã hội vào ngân hàng và mở rộng cho vay, còn lợi hơn là để ngoại tệ lưu thông trôi nổi trong xã hôi, ngân hàng không quản lý được. Danh mục các đơn vị được phép bán hàng và dịch vụ thu bằng ngoại tệ cần giảm thiểu tới mức thấp nhất, đồng thời tăng cường kiểm tra và xử phạt thật nghiêm minh tình trạng tùy tiện mua bán bằng ngoại tệ. Giảm thiểu tới mức có thể chấp nhận được về các loại giấy phép có liên quan đến ngoại tệ, thay vào đó bằng điều kiện kinh doanh, Ngân hàng Nhà nước nên giao quyền chủ động hơn nữa cho các NHTM trong kinh doanh ngoại hối, đa dạng hóa các nghiệp vụ để phòng ngừa rủi ro tỷ giá cho doanh nghiệp.

Từng bước cải cách để thực hiện tự do hóa tài chính hơn nữa. Từ khi thực hiện chính sách mở cửa, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể trong việc ổn định và phát triển trên cơ sở từng bước thâm nhập thị trường kinh tế thế giới. Việt nam sẽ phải mở cửa thị trường ở hầu hết các lĩnh vực, trong đó có thị trường dịch vụ tài chính. Và chính tự do hóa tài chính sẽ là tiền đề để phát triển thị trường các công vụ ngoại hối phái sinh. Để làm được điều cần thiết phải thực hiện từng bước một, chậm rãi và chắc chắn, cụ thể như sau:

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 18/04/2023