Tình Hình Nghiên Cứu Trên Thế Giới Và Ở Việt Nam


bị sẵn đặt vào rãnh theo độ nghiêng 450, hoặc đặt hom nằm ngang dưới rãnh, phía trên mầm phủ 7cm đất mịn.

Cách 2: trồng theo hốc. Trên ruộng trồng, cuốc hố theo khoảng cách như trên. Nếu trồng trên đồi thì các hốc phải trồng so le theo đường đồng mức. Cách đặt hom như phương pháp trên.

Cách 3: tách chồi để trồng. Khi đồng cỏ đã 12 năm tuổi, tách 3/4 số cây liền rễ trong mỗi bụi, chú ý không làm hại rễ. Sau đó ngắt thân non ở phía trên, chỉ giữ phần thân cách gốc 10-15cm. Mỗi cây có thể có tới 12 mầm nách được đem trồng. Nếu rễ quá dài thì dùng kéo cắt bớt. Cách trồng cũng có thể trồng theo rãnh hoặc theo hốc như trên. Cách trồng bằng cây thì tốc độ sinh trưởng nhanh hơn, nói chung sau 2 tháng có thể cắt lứa đầu.

Tưới nước và bón thúc. Sau khi ra ngôi, nên dùng nước phân loãng để tưới giúp cây mọc rễ nhanh. Nếu gặp hạn, cần tưới 1-2 lần cho đến khi cây có màu xanh.

*Cách chăm sóc: - Trồng giặm. Sau khi trồng, chú ý tưới nước giữ ẩm, nếu khuyết cây thì phải giặm bổ sung, đảm bảo mật độ giữ được trên 98%, đạt mức

30.000 -45.000 cây/ha.

- Trong thời gian ban đầu, phải chú ý làm cỏ 1-2 lần. Lần làm cỏ đầu tiên từ sau khi trồng 1 tháng, kết hợp bón mỗi hốc 10g urê. Lần làm cỏ thứ 2 sau khi trồng 2,5 tháng, là thời kỳ cỏ phát triển nhanh nhất, mỗi cây bón 25g urê, đồng thời vun gốc để cây khỏi bị đổ ngã.

- Tưới ẩm và bón thúc. Muốn đạt năng suất cao, nếu gặp khô hạn thì cứ mỗi tuần phải tưới nước 1 lần, nhưng không để đọng nước. Vào mùa mưa phải tiêu thoát nước kịp thời và phải bón thúc nhiều lần để cây đẻ sớm, đẻ khoẻ và sinh trưởng nhanh. Khi cây cao 60cm thì bón phân hữu cơ hoặc phân hỗn hợp. Sau mỗi lần cắt 2 ngày phải xới xáo và bón thúc 1 lần. Mức bón 300-375 kg phân urê/ ha để nâng cao năng suất. Trước khi vào vụ đông, nên bón 1 lần phân chuồng nhằm đảm bảo mầm qua đông và tái sinh năm sau được tốt. Nơi có điều kiện thì sau khi ra ngôi


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 82 trang tài liệu này.

15 ngày cần bón thúc 1 lần bằng phân phun trên lá để nâng cao năng suất và chất lượng cỏ.

- Chăm sóc cỏ làm giống: Với ruộng trồng cỏ để làm giống thì chỉ nên cắt 2-3 lần đầu vào trước tháng 7, sau đó không cắt tiếp mà chỉ bóc lá, nhưng phải trừ lại 6-8 lá trên cây. Mỗi ha bón 750 kg phân lân nung chảy. Khi cây cao đến 180cm trở lên thì thu hết lá ở phần phía dưới để sử dụng, nhưng phải giữ lại lá bao mầm nách và không làm tổn hại đến lá non. Giữ cho cây khoẻ, không sâu bệnh để làm giống.

Nghiên cứu khẩu phần ăn của Ngựa Bạch để xác định diện tích trồng cỏ VA06 tại Chi nhánh nghiên cứu và phát triển Động thực vật bản địa – Công ty cổ phần khai khoáng miền núi, xã Tức Tranh, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên - 4

- Phòng trừ sâu bệnh. VA06 chống sâu bệnh rất tốt, nhưng đôi khi cũng bị bệnh thán thư, phấn trắng, sâu xám, rệp, sâu đục thân, chủ yếu hại mầm non, thân. Biện pháp phòng trừ chủ yếu là giữ vườn cỏ được thông thoáng. Nếu phát sinh sâu bệnh thì dùng các biện pháp phòng trừ sinh học, hết sức tránh dùng thuốc hoá chất.

* Cách thu hoạch và sử dụng:

- Thời vụ cắt. Nói chung vào thời vụ cắt cứ 20 - 40 ngày cắt một lần trong các tháng 4-11 hàng năm. Nói chung, nếu nuôi bò, dê, cừu và các gia súc nhai lại khác thì cắt vào lúc cây cao 130-170cm, mỗi năm cắt 5-6 lứa. Nếu nuôi lợn, cá trắm cỏ thì cắt lúc cỏ còn non, ăn hợp khẩu vị. Nói chung, cắt vào lúc cỏ cao 80-120 cm, mỗi năm cắt 7-10 lứa. Khi cắt cỏ thì cắt cách mặt đất 15cm, cắt nhẹ tay, không cắt quá thấp để tránh ảnh hưởng xấu đến tái sinh, tránh cắt vào ngày mưa vì dễ gây sâu bệnh.

- Cách sử dụng cỏ. Có 4 cách sử dụng cỏ: dùng làm thức ăn chất lượng tốt để chăn nuôi; trồng để bảo vệ đất chống xói mòn, làm sạch, đẹp môi trường; dùng làm nguyên liệu giấy, ván ép và sản xuất đồ uống.

- Cắt cỏ xanh để nuôi gia súc, gia cầm. Lá cỏ tươi mềm, nhiều nước, khẩu vị ngon, giàu dinh dưỡng, tỷ lệ tiêu hoá cao là thức ăn xanh tốt nhất để nuôi gia súc, gia cầm ăn cỏ, hàng năm thu vào các tháng từ tháng thứ 4 đến tháng 11, cắt vào lúc cây cao 100 - 150cm, 1 năm cắt 6-8 lứa, nếu chăm sóc tốt có thể cắt trên 10 lứa.


- Làm thức ăn ủ xanh. Giống cỏ VA06 có hàm lượng đường cao, ủ xanh rất tốt. Trong thời kỳ từ tháng 6 đến tháng 8, cỏ phát triển cực nhanh, năng suất rất cao, khi thân cao 150-200cm thì cắt phơi nắng nửa ngày đến 1 ngày, hạ độ ẩm xuống 60%, rồi cắt thành từng đoạn 3cm để ủ xanh giành làm thức ăn trong mùa đông. Trong khi ủ thì cho thêm 1% ure, 3% muối ăn nhằm nâng cao chất lượng thức ăn.

- Sản xuất cỏ khô xanh. Vào vụ năng suất cao, khi cây cao 150-180cm thì sau khi cắt đem phơi trực tiếp để làm thức ăn khô xanh. Phải chọn ngày nắng, phơi 2-3 ngày, rồi bảo quản trong nhà râm mát, thông thoáng hoặc đánh thành từng đống, đề phòng lên men mốc. Cỏ khô xanh cũng có thể đem nghiền thành bột cỏ để nuôi gia súc, gia cầm.

- Chế biến thức ăn ủ nhẹ. Khi cây cao 250-300cm thì cắt thành từng đoạn 35 cm sau đó phun vi khuẩn để lên men rồi đem chứa vào bịch được nén chặt, sau 30 ngày có thể lấy ra sử dụng để chăn nuôi.

2.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam

2.2.1. Tình hình nghiên cứu cỏ và Ngựa bạch trên thế giới

2.2.1.1 Tình hình nghiên cứu cỏ trên thế giới

Để phát triển chăn nuôi động vật nói chung và động vật nhai lại nói riêng thì một trong những vấn đề cơ bản cần phải giải quyết là nguồn thức ăn xanh. Có hai phương thức để cung cấp dinh dưỡng cho gia súc nhai lại, đó là nguồn thức ăn thô xanh (trên 60% nhu cầu dinh dưỡng của gia súc nhai lại được thoả mãn bằng thức ăn thô xanh). Chính vì vậy, nguồn thức ăn thô xanh được đặc biệt chú ý nhất là đối với nước kinh tế còn kém phát triển cũng như các nước phát triển.

Sau cuộc “Cách mạng về thức ăn gia súc” ở Tây Âu, mà đặc biệt là ở Anh đã tạo điều kiện cho chăn nuôi phát triển, đồng cỏ ngày càng được phát triển đúng với vai trò của nó.


- Theo Điền Văn Hưng (1974) [5], ở Pháp vào năm 1942 chỉ có 4 triệu ha trồng cỏ và 15 triệu ha ngũ cốc thì đến năm 1974 đã thay đổi: 12 triệu ha trồng cỏ và 8 triệu ha ngũ cốc.

Ở Liên Xô cũ đã tăng diện tích trồng từ 2,1 triệu ha (1913) lên 7,3 triệu ha (1933) và đến năm 1961 diện tích đã lên tới 51,9 triệu ha. Diện tích cỏ không những tăng lên mà việc nghiên cứu, chọn lọc các giống cây cỏ năng suất và giá trị dinh dưỡng cao đã được chú trọng. Ngoài giống cỏ nguyên chủng người ta còn lai tạo ra những giống cỏ có năng suất và chất lượng tốt. Đây là những thành tựu đáng kể góp phần giải quyết thức ăn cho gia súc cả về số lượng và chất lượng. Theo ước tính hiện nay trên thế giới, gia súc sử dụng khoảng 3,4 tỷ ha đất dùng cho chăn thả và dùng cho sản xuất thức ăn gia súc diện tích này được đánh giá là lớn hơn 2/3 diện tích sử dụng cho sản xuất nông nghiệp.

Theo nghiên cứu cỏ có thể phát triển tốt ở đất thoáng nước tốt, có tích acid và kém màu mỡ. Tuy nhiên, cỏ cũng có khả năng phát triển tốt ở nơi đất không thoáng nước trong thời gian ngắn. ở các nước như: Nam Phi, Nam Mỹ, Mỹ, Tiệp… các nhà khoa học đã nghiên cứu thành công và đưa vào sử dụng nhiều giống cỏ cho năng suất, chất lượng tốt.

2.2.1.2 Tình hình nghiên cứu Ngựa Bạch trên thế giới

Theo số liệu thống kê củ FAO, thế giới có 80 nước có ngành chăn nuôi ngựa phát triển với số lượng năm 2000 khoảng 63.000.000 con, đến năm 2003 có khoảng 60.000.000 con. Nhằm nâng cao năng suất sản phẩm chăn nuôi ngựa, nhiều nước trên thế giới đã nghiên cứu tạo ra nhiều giống ngựa có chất lượng cao như: Giống ngựa dòng Ku-Sun có năng suất sữa 14 – 21 lít, cao 156 – 160 cm, nặng 500 – 600 kg; Giống ngựa Ả Rập cao 151 – 153 cm, nặng 450 – 500 kg, chạy nhanh 55 – 60 km/giờ; ngựa Kabardin cao 150 – 155 cm, nặng 500 – 550 kg, chạy nhanh 45 – 50 km/giờ, kéo trùng 2000 kg; Giống ngựa Ku – Su dòng sản xuất thịt nặng 663 – 675 kg; Giống ngựa Ku – Sun dòng kéo – cưỡi trong 1 đêm đi được 250 – 280 km.


Bên cạnh việc nghiên cứu tạo giống ngựa mới, nhiều nước đã tiến hành nghiên cứu chọn lọc các giống ngựa địa phương để từng bước cải tạo, pha máu với giống ngựa tốt có năng suất cao ở nước ngoài, phù hợp với điều kiện chăn nuôi trong hộ gia đình.

Từ máu và huyết thanh ngựa chửa, nhiều nước đã nghiên cứu tách chiết được thuốc kích dục tố cho gia súc, GamaGlobulin, vắc xin phòng dại và rắn cắn, kháng huyết thanh chống lép to, băng cầm máu, enzym phát hiện nhiễm độc thuốc trừ sâu trong nông nghiệp,... Trung Quốc là nước gần Việt Nam, ngựa Bạch được tuyển chọn nuôi thành các trang trại gia đình, chọn lọc nhân thuần, khai thác tinh bảo tồn ngựa bạch nhạn. Theo Hasse và cs (2007), gen quy định màu trắng là gen trội W, khi tổ hợp gen là Ww ngựa sẽ có màu lông trắng toàn thân, da hồng, mắt nâu hoặc xanh. Nếu ngựa cái trắng này lai với ngựa đực màu sẽ cho đời con 50% màu trắng (Ww), 25% ngựa màu (ww) và 25% (WW) sẽ chết thai. Tổ hợp gen gây chết (WW) đã được phát hiện từ năm 1953 và đã được khẳng định năm 1969.

Màu lông là một tính trạng rất đặc biệt, đóng vai trò chính ngay trong thời gian đầu của quá trình thuần hoá động vật và sự chọn lọc đã bắt đầu trong các loài vật nuôi. Trong khi rất nhiều loài động vật hoang dã có màu lông tương đối giống nhau, nhưng động vật nuôi, chẳng hạn như ngựa lại có rất nhiều kiểu màu lông. Điều này phần lớn là do khác biệt trong chọn lọc động vật hoang dã khác với quần thể giống nuôi nhốt.

Các gen ảnh hưởng đến màu lông và da của động vật có vú có thể chia làm hai nhóm chính: Một nhóm tác động về tổng hợp các sắc tố, một nhóm tác động vào các tế bào sinh ra sắc tố (Stefan, 2009).

Các gen kiểm soát màu lông ngựa đã được nghiên cứu từ lâu. Tuy nhiên gần đây các alen hay marker chức năng mới được phát hiện ở mức phân tử ADN.

Ở ngựa có các màu lông cơ bản: hạt dẻ, hồng và đen được xác định bởi bốn alen, hai trong số đó thuộc locut Extension (E), hai alen còn lại thuộc locut


Agouti (A). Màu hạt dẻ và đen là kiểu di truyền lặn (Ee. Ee và Aa. Aa), màu hạt dẻ lấn át màu đen. Do đó màu đen chỉ biểu hiện khi kiểu gen Extension khác với kiểu gen Ee. Ee. Màu hồng là kết quả của tổ hợp Aa ở locut A và các alen Ee/ EE ở locut E.

Đối với ngựa một số đột biến khác nhau quy định cho những màu lông chính đã được phân lập: Trong gen MC1R, đầu tiên Marklund (1996) đã phân lập được alen e quy định màu hạt dẻ của ngựa là do đột biến nucleotide đơn (C901T, AF 2883575). Tiếp theo, Wagner và Reissmann (2000) phân lập alen thứ hai là ea quy định màu hạt dẻ. Trong phân tích gen ASIP, Rieder (2001) thông báo đột biến mất 11 bp được phát hiện ở dạng đồng hợp tử hoàn toàn có liên quan tới ngựa mang kiểu gen lặn màu lông đen. Sự dịch chuyển màu của ba màu cơ bản là do hiệu quả tương tác của các alen cùng xuất hiện.

Trong chăn nuôi, nhiều ngựa con sinh ra mang màu lông trắng là do bị bạch tạng. Điều này sẽ gây khó khăn trong việc phân biệt giữa ngựa bạch và ngựa bạch tạng. Ngựa bạch tạng thường không có khả năng sinh sản, ngựa con màu trắng sinh ra thường bị chết (hội chứng OLWS). Vấn đề này đã và đang được nhiều nhà khoa học trên thế giới quan tâm. Các tác giả Yang (1998), Santschi (1998) và Metallinos (1998) cho rằng đột biến hai nucleotid (TC353- 354AG) trong gen Endothelin-B receptor (EDNRB) liên quan với hội chứng chết của ngựa con màu trắng (OLWS-overo lethal white symdrom). Đột biến dẫn đến thay đổi axit amin từ Isoleusine sang Lysine của G- protein couple receptor. Hội chứng ngựa con chết được phát hiện là do đột biến đồng hợp tử, do bố mẹ mang kiểu gen dị hợp tử.

Yang (1998) sử dụng kỹ thuật PCR-RFLP từ cặp mồi ps2/hex1 cho thấy sản phẩm PCR là 155 bp. Cắt sản phẩm PCR bằng enzym giới hạn BfaI cho thấy ngựa trắng mang alen chết có hai băng 136 bp và 19 bp, nhưng ngựa bình thường sản phẩm PCR không bị cắt.


Nhân sản phẩm PCR từ cặp mồi ps4/ps5 sản phẩm PCR là 90 bp. Cắt sản phẩm PCR bằng enzỵm giới hạn Sau 3AI cho thấy ngựa mang alen chết không bị cắt, nhưng ở ngựa bình thường sản phẩm PCR được cắt thành hai băng 70 bp và 20 bp.

Theo nghiên cứu của Santschi (1998) trên đàn ngựa 945 con màu trắng cho thấy: tất cả ngựa con có hội chứng OLWS là dạng đồng hợp tử của đột biến endothelin-B receptor Ile118Lys và không tìm thấy ngựa trưởng thành mang kiểu gen đồng hợp tử này. Màu lông trắng được liên kết chặt chẽ với kiểu gen EDNRB. Kiểm tra ADN (kiểu gen EDNRB) là cách duy nhất để xác định chắc chắn liệu các con ngựa màu trắng có thể sinh ra ngựa con bị mắc hội chứng OLWS hay không.

Theo nghiên cứu của Haase (2007, 2009), phát hiện có 4 đột biến độc lập trong gen KIT ở ngựa chịu trách nhiệm về kiểu hình màu lông trắng trội trong nhiều giống ngựa. Trong 7 họ ngựa nghiên cứu, chỉ duy nhất một họ ngựa trắng có mang các đột biến trong kiểu gen. Những đột biến được phát hiện mới đây gồm hai đột biến dịch khung, hai đột biến nhầm nghĩa và ba đột biến về vị trí ghép cặp (c.338-1G>C; c.2222-1G>A; c.2684+1G>A). Thực tế, số lượng alen của gen KIT của ngựa được mô tả đến mức độ phân tử là nhiều hơn bất kỳ các gen nào khác ở các loài vật nuôi khác.

2.2.2 Tình hình nghiên cứu cỏ và Ngựa bạch ở Việt Nam

2.2.2.1 Tình hình nghiên cứu cỏ ở Việt Nam

Trong những năm gần đây, nhờ chủ trương chuyển đổi cơ cấu trong nông nghiệp và trước nhu cầu về thực phẩm protein có chất lượng cao đã thúc đẩy ngành chăn nuôi có những bước phát triển mạnh. Mặt khác, chính sách giao đất cho người sản xuất đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển những mô hình chăn nuôi tập trung theo kiểu trang trại trong các hộ gia đình. Để đạt hiệu quả cao trong chăn nuôi đại gia súc, cần đảm bảo đủ nguồn thức ăn đáp ứng nhu cầu của chúng. Từ năm 1960 chỉ có 46 ha cỏ trồng thì năm 1961 và 1962 thì diện


tích này đã tăng lên tương ứng là 323 và 687 ha, năm 1976 đã có 5000-6000 ha. Để phát triển đồng cỏ, năm 1976 Bộ Nông Nghiệp đã phát hành “Qui phạm, xây dựng, dự trữ và quản lý đồng cỏ”, từ đó đến nay cả nước đã phát triển được hàng nghìn ha đồng cỏ, cụ thể trong mấy năm trở lại như sau: 2003 là 10.897ha, năm 2004 là 17.292 ha, năm 2005 là 27.563 ha (Cục chăn nuôi,2006) [8] , trên cơ sở đó mà hàng năm giống cỏ đã được nhập và bước đầu nghiên cứu ở nước ta. Hiện nay, có nhiều trung tâm nghiên cứu, khảo sát các giống cỏ như:

- Viện chăn nuôi Quốc Gia.

- Trung tâm nghiên cứu dê và thỏ sơn tây Hà Nội.

- Trung tâm nghiên cứu bò và đồng cỏ Ba Vì Hà Nội.

- Trung tâm nghiên cứu và phát triển chăn nuôi miền núi Sông Công Thái Nguyên.

Qua quá trình khảo nghiện và nghiên cứu, người ta thấy rằng giống cỏ VA06 sinh trưởng nhanh, năng suất cao, có khả năng thích nghi với đất cằn cỗi và acid. Đặc biệt đây là giống cỏ cho sinh khối lớn và giá trị dinh dưỡng cao.

Giống cỏ VA06 là giống cỏ được các trang trại cũng như nghành chăn nuôi đại gia súc đặt là mục tiêu cho sự phát triển của nghành chăn nuôi ở nước ta.

2.2.2.2 Tình hình nghiên cứu Ngựa bạch ở Việt Nam

a) Sơ lược về Ngựa bạch

Chữ “bạch” theo tiếng Hán-Việt nghĩa là trắng và vô tình hiểu ngựa bạch nghĩa là ngựa màu trắng. Tuy nhiên thực tế không phải như vậy. Ngựa bạch khác ngựa trắng.

Ngựa bạch thực tế là những con ngựa bị bệnh bạch tạng, độ biến gen. Do đó ngựa bạch khác ngựa trắng như các lỗ tự nhiên có màu hồng đỏ, bốn chân có móng sừng, màu cước ánh bạc.

Ngựa bạch tương đối quý hiếm do tỷ lệ xuất hiện thấp, chúng thường được chọn giống và nhân nuôi ngựa để lấy xương làm cao ngựa bạch. Ở một số nơi, các đàn ngựa bạch tạng này được nhân nuôi thành quần thể để bảo tồn. Giống ngựa này ít bệnh tật, không mất nhiều công chăm sóc.

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 11/07/2022