38
1.4.2.1. Phương pháp dùng lực cấp tốc
Đặc điểm của phương pháp dùng lực cấp tốc là khắc phục một trọng lượng dụng cụ (thể thao) nhất định với tốc độ co cơ nhanh nhất, để phát triển sức mạnh bột phát của VĐV, bao gồm hai hình thức luyện tập dưới đây (bảng 1.14) [24].
Bảng 1.8. Đặc điểm rèn luyện của phương pháp dùng lực cấp tốc
(theo Dương Thế Dũng, 2008) [24]
70 – 85 | 30 – 60 | |
Số tổ | 4 – 6 | 3 – 6 |
Số lần mỗi tổ | 4 – 6 | 5 – 10 |
Tốc độ thao tác | Kiểu bứt phá | Kiểu bứt phá |
Thời gian ngắt quãng (phút) | 3 – 4 | 3 – 4 |
Có thể bạn quan tâm!
- Phương Tiện Huấn Luyện Thể Lực Trong Huấn Luyện Thể Thao
- Các Bài Tập Với Chế Độ Khống Chế Và Nhượng Bộ Của Cơ Bắp
- Mối Quan Hệ Giữa Cường Độ, Số Tổ, Số Lần Với Phát Triển Sức Mạnh
- Các Công Trình Nghiên Cứu Có Liên Quan
- Nghiên cứu hiệu quả ứng dụng các bài tập phát triển sức mạnh cho vận động viên cử tạ nam lứa tuổi 15 - 16 đội tuyển trẻ quốc gia - 9
- Nghiên Cứu Xây Dựng Tiêu Chuẩn Đánh Giá Sức Mạnh Của Vđv Cử Tạ Nam Lứa Tuổi 15 - 16 Đội Tuyển Trẻ Quốc Gia
Xem toàn bộ 219 trang tài liệu này.
1.4.2.2. Phương pháp dùng lực cấp tốc với cường độ trung bình
Đặc điểm của nó là dùng cường độ 70% - 85%, luyện tập dùng tốc độ tối đa 4 – 6 tổ, mỗi tổ 3 – 6 lần. Phương pháp này vô cùng có hiệu quả đối với việc nâng cao tính đột phá của sức mạnh cơ bắp, đặc biệt là khi sử dụng các hình thức cử giật, cử đẩy phát triển lực bứt phá thì càng hiệu quả. Vì vậy, có thể sử dụng phương pháp này để phát triển lực bứt phá. Ngoài ra, cũng có thể sắp xếp bài tập có sức chịu đựng nhỏ nhưng yêu cầu hoàn thành nhanh [22], [24], [32], [47], [74].
Trong luyện tập cử tạ thường sử dụng cường độ 70% - 85%, lấy các kỹ thuật như cử giật, cử đẩy (giật cao, đẩy lên cao) để phát triển sức nhanh.
1.4.2.3. Phương pháp dùng lực cấp tốc với cường độ nhỏ
Đặc điểm của nó là dùng cường độ 30% - 60%, luyện tập 3 – 6 tổ, mỗi tổ 5 – 10 lần, thực hiện các bài tập phát triển chuyên môn, cố gắng làm cho cấu trúc bài tập và phương thức hoạt động của cơ bắp gần với các động tác thi đấu.
Nguyên lý của phương pháp dùng lực cấp tốc: sự tăng lên của tốc độ là biểu hiện của tăng trưởng sức mạnh. Phương pháp dùng lực cấp tốc có lợi cho
39
việc bồi dưỡng ý thức tốc độ và phản xạ vận động nhanh của VĐV [22], [24], [32], [47], [74].
1.4.3. Huấn luyện sức mạnh bền
Sức mạnh bền là tố chất tổng hợp của sức mạnh và sức bền, là năng lực hoạt động cơ bắp trong 1 thời gian dài (phối hợp giữa tĩnh lực và động lực) mà không hạ thấp hiệu quả công việc. Sức mạnh bền chia thành sức mạnh bền mang tính tĩnh và sức mạnh bền mang tính động. Sức mạnh bền mang tính động vừa có thể chia nhỏ sức mạnh bền lớn nhất (trùng lặp phát huy sức mạnh lớn nhất) và sức mạnh bền tốc độ (trùng lặp phát huy sức mạnh bền tốc độ). Sức mạnh bền mang tính tĩnh lại có thể chia nhỏ thành sức mạnh bền mang tính tĩnh lớn nhất và sức mạnh bền mang tính tĩnh cận lớn nhất [22], [24], [32], [47], [74].
Từ quan hệ chuyển đổi vật chất của cơ bắp, khi luyện tập sức mạnh bền mang tính tĩnh, cơ bắp khẩn trương dần dần hạ xuống, từ đó hạn chế tác dụng của vật chất khí, khi cơ bắp khẩn trương cao độ, có thể làm gián đoạn loại cung ứng này. Khi luyện tập sức mạnh bền mang tính tĩnh, cơ bắp có chuyển đổi qua lại giữa khẩn trương và thả lỏng, trong thời gian ngắn có cung ứng lưu thông máu co vật chất khí, có lợi cho quá trình hồi phục của cơ thể.
Căn cứ vào quan hệ chuyển đổi vật chất cơ bắp, nếu phải phát triển sức mạnh bền, có thể luyện tập phương pháp luyện tập số lượng cực đoan của dùng lực cực hạn, như phương pháp luyện tập động, phương pháp luyện tập mang tính tĩnh có cường độ phụ tải tương đối thấp và phương pháp luyện tập tuần hoàn.
1.5. Đặc điểm tâm - sinh lý lứa tuổi 15 – 16 trong huấn luyện VĐV cử tạ
1.5.1. Đặc điểm tâm lý lứa tuổi 15 - 16
Ở lứa tuổi 15-16 các em đã có những bước phát triển nhảy vọt về thể chất lẫn tinh thần. Biểu hiện là đã có những bước phát triển qua tuổi thơ ấu sang tuổi trưởng thành, lứa tuổi này các em không hẳn là người lớn cũng không hẳn là trẻ con nữa.
40
Giai đoạn này các em đã hình thành những phẩm chất mới về trí tuệ, tình cảm, đạo đức phong cách và thái độ về công việc được giao. Sự phát triển của các em trong giai đoạn này tương đối phức tạp, tâm lý của các em có những biến đổi mâu thuẫn với nhau, xuất hiện nhiều đột biến mới.
Biểu hiện cơ bản nhất của lứa tuổi này là ở độ tuổi dậy thì và quan trọng hơn cả là sự hình thành và phát triển của bộ máy sinh dục (các em nữ xuất hiện chu kỳ kinh nguyệt). Các chức năng sinh lý mới hoàn toàn xuất hiện. Tuyến sinh dục bắt đầu hoạt động mạnh, biểu hiện ra bên ngoài bằng các dấu hiệu phụ như giọng nói, tính cách.
Sự phát triển này làm ảnh hưởng phần nào đến cá tính của các em, tình cảm sâu sắc dễ bị kích động khiến cho bản thân không tự kiềm chế được. Đôi khi bản chất kích động mạnh làm cho các em dễ dẫn tới quá trớn. Học tập rất miệt mài và hăng say, khả năng tư duy lôgic phát triển mạnh, ghi nhớ có chủ định chiếm ưu thế so với ghi nhớ không chủ định. Nhưng các em lại rất hay chán nản khi không thực hiện hoàn thành các nhiệm vụ [73].
Sự phát triển thân thể của các em đột ngột về chiều cao, hệ xương có bước được cốt hoá và phát triển mạnh. Hệ thần kinh cũng được hoàn thiện và phát triển. Trong quá trình học tập hệ thống tín hiệu thứ 2 của các em được nâng lên. Sự biến đổi mạnh về thể chất dẫn tới sự mất thăng bằng của các bộ phận chức năng cơ thể. Sự mất cân bằng giữa tim mạch và mạch máu, dung tích của tim tăng lên gấp đôi so với lứa tuổi trước đó. Nhưng dung tích sống của mạch máu chỉ tăng lên gấp 1,5 lần; hệ tuần hoàn tạm thời bị rối loạn gây nên hiện tượng thiếu máu cục bộ tại một số bộ phận trên vỏ não làm cho các em trong quá trình tập luyện rất dễ bị mệt mỏi, chán nản thần kinh không ổn định, dễ xúc động, dễ bị kích động làm cho các phản xạ giữa hưng phấn và ức chế không ổn định, có lúc hưng phấn mạnh hơn, có lúc ức chế lại lấn át hưng phấn làm cho các em có lúc mất tự chủ của bản thân.
41
Cùng với sự phát triển của sức mạnh, sức nhanh trong cơ bắp khiến trong quá trình hoạt động có nhiều động tác thừa, lóng ngóng, vụng về, sai lệch về biên bộ và kỹ thuật động tác. Nhưng đây cũng chính là dấu hiệu khó khăn tạm thời của sự phát triển. Trong công việc cụ thể, rất thích được khen ngợi, biểu dương và có xu thế bắt trước và học tập người lớn [73].
Ở lứa tuổi 15 - 16 các em bước vào tuổi mộng mơ, với nhiều ước mơ và sự lãng mạn, thích ngắm vuốt trang điểm, cơ thể đã hình thành những đường cong sinh lý. Vì vậy các em tỏ ra mình là người lớn đòi hỏi mọi người xung quanh phải tôn trọng mình. Đồng thời tỏ ra mình là người hiểu biết nhiều hơn, rộng hơn và ưa hoạt động nhiều hơn có rất nhiều biến động tinh nghịch, ở lứa tuổi này các em nữ thường phát triển hơn các em nam ở mặt tâm lý tình cảm. Quá trình hưng phấn chiếm ưu thế so với quá trình ức chế nên các em dễ tiếp thu cái mới nhanh hơn có độ khéo léo cao nhưng lại chóng quên, chóng chán, các em dễ bị môi trường tác động vào tạo nên sự đánh giá cao về mình. Chính sự đánh giá cao đó đã gây ra tác động không tốt trong tập luyện TDTT [73].
Vì vậy khi tiến hành giảng dạy cho lứa tuổi này cần phải uốn nắn, nhắc nhở, định hướng chỉ bảo và động viên các em hoàn thành tốt các nhiệm vụ, khen thưởng động viên đúng mức [73].
1.5.2. Đặc điểm sinh lý lứa tuổi 15 - 16
Đặc điểm giải phẫu của lứa tuổi này là căn cứ quan trọng để tiến hành giảng dạy, huấn luyện thể thao. Chỉ có dựa vào đặc điểm giải phẫu sinh lý và tuân theo những quy luật của cơ thể thì quá trình huấn luyện TDTT mới phát huy được tác dụng to lớn đến việc nâng cao năng lực hoạt động của cơ thể, để trực tiếp phục vụ cho học tập, tập luyện TDTT. Ở lứa tuổi 15 - 16 cơ thể của các em phát triển tương đối hoàn chỉnh nhất là đối với các em nữ; các bộ phận tiếp tục lớn lên, nhưng tốc độ lớn chậm dần, chức năng sinh lý đã tương đối ổn định, khả năng hoạt động của các cơ quan bộ phận của cơ thể cũng được nâng cao hơn. Cơ thể
42
phát triển theo chiều ngang nhiều hơn, chiều cao vẫn phát triển nhưng chậm dần đối với các em nữ [28].
Ở lứa tuổi này có sự phát triển rõ rệt về tầm vóc, sức chịu đựng và tâm lý. Vì vậy chúng ta cần phân biệt thể chất, cường độ năng lượng của tập luyện sao cho hợp lý để có điều kiện cho cơ thể phát triển một cách toàn diện cân đối.
Hệ vận động:
Hệ xương: Bắt đầu giảm tốc độ phát triển, sụn ở 2 đầu xương vẫn còn dài, cột sống đã ổn định hình dạng nhưng vẫn chưa được củng cố, vẫn dễ bị cong vẹo cho nên việc tiếp tục bồi dưỡng tư thế chính xác trong đi, chạy nhảy cho các em rất cần thiết và không thể xem nhẹ [28].
Hệ cơ: Trong quá trình phát triển cơ thể các tổ chức cơ phát triển muộn hơn xương. ở lứa tuổi này (15 - 16) các cơ bắp phát triển nhanh nhất. Tuy nhiên có cơ còn tương đối yếu, các cơ lớn phát triển tương đối nhanh (như cơ đùi, cơ cánh tay) các cơ nhỏ phát triển chậm hơn, các cơ co phát triển hơn các cơ duỗi. ở độ tuổi này cấu tạo và cơ năng của các cơ quan vận động phát triển nhanh nhưng chưa cân đối. Do tính nhịp điệu trong vận động phần nào bị ảnh hưởng, động tác rời rạc thiếu nhanh nhẹn linh hoạt. Bởi vậy HLV cần chú ý đặc điểm này để lựa chọn nội dung tập luyện cho phù hợp [28].
Hệ tuần hoàn:
Hệ tuần hoàn đang phát triển và hoàn thiện, trọng lượng và sức chứa của tim phát triển tương đối hoàn chỉnh; tim của nữ ở lứa tuổi này mỗi phút đập từ 75 - 80 lần mỗi phút, cung cấp số lượng máu gần tương đương với người lớn. Phản ứng của hệ tuần hoàn trong vận động tương đối rõ rệt nhưng sau vận động mạch đập và huyết áp hồi phục tương đối nhanh chóng, cho nên ở lứa tuổi này có thể tập những bài tập có cường độ và khối lượng tương đối lớn [28].
Hệ hô hấp:
43
Vòng ngực ở nữ tuổi 15 - 16 trung bình 67.3 - 72.22 cm, dung tích tiếp xúc của phổi khoảng 100 - 120 cm2 gần bằng lứa tuổi trưởng thành, dung tích phổi tăng lên rõ rệt, tần số thở của lứa tuổi này cơ bản giống người lớn (khoảng 10 - 20 lần trong 1 phút), tuy nhiên các cơ thở còn yếu cho nên sức co giãn của lồng ngực ít. Vì vậy trong tập luyện cần chú ý thở bằng ngực, cơ lườn, cơ mình [28].
Hệ thần kinh:
Ở lứa tuổi này các tổ chức thần kinh đang tiếp tục phát triển để đi đến hoàn thiện. Tổng khối lượng của não không tăng nhiều, chủ yếu cấu tạo bên trong của não không tăng, khả năng tư duy nhất là vỏ não phức tạp hơn; khả năng tư duy nhất là khả năng phân tích tổng hợp; trừu tượng hoá phát triển thuận lợi cho việc hình thành phản xạ có điều kiện.
Sự hoạt động mạnh của cac tuyến giáp làm cho tính hưng phấn của thần kinh chiếm ưu thế giữa hưng phấn và ức chế không cần bằng, ảnh hưởng đến hoạt động thể dục [28].
1.5.3. Tác động của lượng vận động lên quá trình phát triển thể chất của VĐV cử tạ
Lượng vận động tập luyện gây ra hàng loạt biến đổi trong các cơ quan và hệ thống khác nhau. Khi thích ứng với hoạt động cơ bắp mạnh, cơ thể sẽ vươn tới sự thăng bằng các biến đổi chức năng.
Khối lượng của lượng vận động trong bài tập có thể là trọng lượng của tạ được nâng với số lượng lần nâng [74].
Cường độ được đánh giá bằng số kg và được xác định bằng cách chia khối lượng của lượng vận động đã thực hiện (kg) cho số lần nâng [74].
Trong quá trình phát triển cơ thể của trẻ thanh thiếu niên diễn ra việc tăng sức mạnh cơ một các tự nhiện và lại sức mạnh tuyệt đối phát triển không ngừng nghỉ và tương đối đồng đều trong suốt thời gian lứa tuổi phổ thông. Thông qua ý
44
kiến của tác giả A.V. Carobcôva và Ph. G. Cararana sức mạnh cơ của học sinh phổ thông tăng cao không đồng đều: Các giai đoạn tăng sức mạnh tương đối vừa phải được thay thế bằng các giai đoạn có thay đổi rõ rệt hơn [74].
Ví dụ như tốc độ phát triển thể chất của thanh niên trong giai đoạn dậy thì, độ lớn những chỉ số sức mạnh của cơ, trong lứa tuổi 13-14 sức mạnh cơ nhị đầu cánh tay, gập và duỗi bàn tay và cơ ngón tay cả khi hoạt động làm việc đạt được độ lớn hơn so sánh với trẻ ở lứa tuổi 8-9 tuổi. Điều này được nghiên cứu bởi tác giả A.V. Carabcôva đã chỉ rõ rằng sự phát triển sức mạnh những nhóm cơ khác nhau trong 1 kg trọng lượng của cơ thể trẻ 13-14 tuổi diễn ra mạnh mẽ hơn so với trẻ 8-9 tuổi và thanh thiếu niên 18-19 tuổi. Tác giả tính toán độ lớn sức mạnh dựa trên 1 kg trọng lượng của trẻ 13- 14 tuổi đạt được như người 20-30 tuổi [74]. Tác giả A.A Iantrevcôvo đã cho thấy rằng, việc ứng dụng trọng lượng tạ
70% từ trọng lượng tối đa đã cho phép tăng cao mức độ phát triển chỉ số sức mạnh - tốc độ, hơn so sới những trọng lượng khác trong quá trình huấn luyện. Đồng thời thông qua ý kiến của tác giả R.A Rômana việc phát triển sức mạnh tốt nhất đạt được trong quá trình huấn luyện với trọng lượng đạt 90-100% trọng lượng tối đa [74].
Nghiên cứu N.A. Fomin, V.P. Filin cho thấy rằng các bài tập sức mạnh tốc độ cải thiện khả năng phân hóa tác nhân kích thích và tăng cao hưng phấn các trung tâm thần kinh ở lứa tuổi 12-14. Nó cũng được phát hiện trong tuổi dậy thì (ở nam - từ 12 đến 16 tuổi) sự gia tăng chung hưng phấn của hệ thần kinh trung ương. Tất cả các phản ứng bằng lời nói và hoạt động đều có thể đi kèm với cử động quá mức của bàn tay, chân và thân. Trong hành vi của thanh thiếu niên được ghi nhận ưu thế rõ ràng hơn của cảm xúc dưới sự ức chế [46].
Nghiên cứu của tác giả A.N. Vorôbiev đã cho thấy rằng, việc tập luyện thường xuyên nâng cao trọng lượng có tác động tích cực nên chức năng hoạt động bộ máy hệ thần kinh – cơ; nâng cao hưng phấn, giảm bớt chronaxi, tăng
45
cao tốc độ co cơ và thả lỏng, tăng cao khả năng làm việc tĩnh và động, tăng cường nhịp độ tích cực trước kích thích bởi dòng điện. Chẳng phải ngẫu nhiên, mà tác giả cho rằng, những VĐV mạnh nhất có tính chất không ổn định bộ máy hoạt động cơ [74].
Ngoài ra tác giả RA Shabunin, LS Dvôrkin cho thấy được sự ảnh hưởng đặc trưng của môn cử tạ lên hệ tuần hoàn của vận động viên. Như A.N. Vorôbiev đã cho thấy, trong giai đoạn nỗ lực căng cơ cực đại khi nâng trọng lượng lớn đã phát sinh điều kiện cản trở đối với hệ tuần hoàn. Thông qua tài liệu của tác giả
M.B. Kazakôva và A.T. Vorôbyev, VĐV cử tạ chuyên nghiệp có tần số mạch đập trong những điều kiện với những khối lượng căn bản là 42 -70 nhịp/phút. VĐV hạng cân nhẹ hơn nhịp đập mạch thấp hơn VĐV hạng cân nặng hơn. Những chỉ số này của VĐV cử tạ dạ dày trong trong tư thế nằm ngửa là 42-78 nhịp/ phút, tức là trung bình 57 nhịp/ phút [74].
Tuy nhiên, theo ý kiến của tác giả Yu.V. Verhôshansky không phải lúc nào cũng đạt được hiệu quả phát triển sức mạnh. Phương pháp tập luyện đạt được kết quả trong phần tiếp theo thông qua đại lượng tập luyện được lâng cao. Từ nghiên cứu của N.V. Zimkina biết rằng trong khoảng thời gian 8 buổi tập với tải trọng 45-60% tối đa phần nào hiệu quả hơn so với tải trọng 60-75% và 75- 90%. Sau đó, sau 66 buổi tập, hiệu quả lớn nhất đạt được bởi các bài tập với tải trọng 75-90% và nhỏ nhất - ở mức 45-60%.
Như vậy có thể nhận thấy công việc tập luyện với tạ như một phương tiện hiệu quả trong việc bồi dưỡng sức mạnh cho VĐV cử tạ trẻ và các VĐV cao cấp. Những nghiên cứu này đã chứng minh rằng, hầu hết việc sử dụng rộng rãi các phương tiện và phương pháp khác nhau của môn thể thao cử tạ cho phép cải thiện một trong những phẩm chất cơ bản đó là - sức mạnh cơ bắp. Ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong hệ thống đào tạo VĐV cử tạ đó là sự phát triển chủ yếu về