lượng nếu các thành phần của nó hoạt động đúng quy trình và chuẩn xác. Quan điểm này đánh giá các thành phần của HTTTKT là những nhân tố làm cơ sở cho việc đánh giá chất lượng HTTTKT.
Các tính năng bên trong và bên ngoài của chất lượng HTTTKT, có tầm quan trọng lớn đối với việc đo lường chất lượng HTTTKT. Một số tiêu chí được thể hiện trong bảng 2.1.
Bảng 2.1. Tiêu chí đánh giá của chất lượng HTTTKT
Nguyên tắc hoạt động của HTTTKT | Quy trình chất lượng kế toán | Phạm vi HTTTKT | Phát triển HTTTKT | |
1. Kết nối HTTTKT và hệ | 1. Chất lượng | 1. Chất lượng | 1. Kế hoạch chất | |
thống quyết định kinh | đầu vào. | phần mềm kế | lượng HTTTKT. | |
doanh. | 2. Chất lượng | toán. | 2. Phân tích chất | |
2. HTTT duy nhất cho | xử lý dữ liệu. | 2. Chất lượng | lượng HTTTKT. | |
Các | toàn bộ hệ thống kinh | 3. Chất lượng | phần cứng. | 3. Thiết kế chất |
đặc | doanh. | đầu ra. | 3. Chất lượng | lượng hệ thống kế |
trưng | 3. Xem xét lợi ích và chi | hỗ trợ truyền | toán. | |
của | phí thông tin. | thông. | 4. Kiểm tra và | |
chất | 4. Tính duy nhất của việc | 4. Chất lượng | thực hiện hệ | |
lượng | truy cập và phân loại | công việc và sự | thống kế toán. | |
thông tin. | hài lòng của | |||
5. Phản hồi thông tin. | người dùng. | |||
6. Thông tin tài liệu làm | 5. Giải pháp | |||
bằng chứng. | chất lượng của | |||
7. Chất lượng thông tin. | tổ chức. | |||
8. Tính hợp lý của | 6. Chất lượng | |||
HTTTKT. | cơ sở dữ liệu. |
Có thể bạn quan tâm!
- Tổng Quan Nghiên Cứu Và Cơ Sở Lý Thuyết Về Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Chất Lượng Hệ Thống Thông Tin Kế Toán
- Chất Lượng Hệ Thống Thông Tin Kế Toán Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Hoạt Động
- Tiêu Chí Đánh Giá Chất Lượng Hệ Thống Thông Tin Kế Toán
- Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Chất Lượng Hệ Thống Thông Tin Kế Toán
- Mô Hình Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Chất Lượng Htttkt
- Tổng Hợp Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Chất Lượng Htttkt
Xem toàn bộ 219 trang tài liệu này.
Nguồn: Ivana và Ana (2013)
Huỳnh Thị Hồng Hạnh và Nguyễn Mạnh Toàn (2013) đề xuất các tiêu chí đánh giá hiệu quả của HTTTKT theo mức độ hài lòng với người sử dụng kết hợp 4 tiêu chí: chất lượng thông tin, chất lượng hệ thống, tính hữu dụng và sự hài lòng của người dùng. Tuy nhiên, nghiên cứu của các tác giả mới chỉ dừng lại ở lý thuyết trong việc đề xuất mô hình, chưa đề xuất các bằng chứng thực nghiệm để kiểm chứng mô hình nghiên cứu. Vì vậy, đây cũng là một cách tiếp cận cần có các nghiên cứu sau này phát
triển ý tưởng và thu thập các bằng chứng thực nghiệm để kiểm chứng xem các yếu tố nào là phù hợp trong đánh giá chất lượng HTTTKT.
Chất lượng HTTTKT có rất nhiều tiêu chí để đánh giá. Một số nghiên cứu sử dụng đơn tiêu chí để đo lường chất lượng HTTTKT như một số nghiên cứu xem xét những ảnh hưởng của HTTTKT trong việc cải thiện các kết quả của DN để đánh giá chất lượng HTTTKT (Sajady và cộng sự, 2008; Alzoubi, 2011). Petter (2008) khẳng định rằng việc lựa chọn các tiêu chí đánh giá chất lượng HTTT phụ thuộc vào bối cảnh DN như đặc điểm về bản chất DN, mục đích của hệ thống cần đánh giá.
Chất lượng hệ thống được sử dụng trong quá trình đánh giá những đóng góp của HTTT cho DN (Delone và Mc Lean, 1992). Chất lượng hệ thống đo lường quá trình xử lý thông tin của chính hệ thống đó, đánh giá về phần mềm và các dữ liệu của hệ thống xét trên góc độ kỹ thuật (Gorla và cộng sự, 2010). Chất lượng hệ thống liên quan mật thiết đến việc hệ thống không có “lỗi” trong hệ thống, tính nhất quán của giao diện người dùng, dễ sử dụng, chất lượng tài liệu, chất lượng và khả năng bảo trì của việc mã hóa chương trình (Seddon, 1997). Với tiêu chí này, HTTTKT có chất lượng cần phải có sự vượt trội trong việc đáp ứng các tiêu chuẩn về mặt kỹ thuật, phù hợp và đáp ứng yêu cầu của các đối tượng sử dụng trong DN. Tiêu chí đánh giá chất lượng hệ thống theo Gorla và cộng sự (2010) bao gồm:
- Hệ thống dễ hiểu đối với người sử dụng: HTTTKT với cách sử dụng và các chức năng dễ dàng cho người sử dụng tìm hiểu giúp họ nhanh tiếp cận và sử dụng hệ thống. Một số DN sử dụng các hệ thống với ứng dụng phức tạp gây ra sự khó khăn cho người sử dụng. Chính vì vậy, một số DN dù trang bị những ứng dụng hiện đại nhưng lại thất bại vì không tương thích với trình độ người dùng.
- Hệ thống thông tin kế toán có sự kết hợp thông tin từ nhiều nguồn khác nhau để hỗ trợ các quyết định kinh doanh: HTTTKT tích hợp tốt với các bộ phận, hệ thống khác sẽ giúp hợp nhất thông tin trong toàn DN. Ví dụ, DN áp dụng ERP hoặc các phần mềm công nghệ điện toán đám mây có thể tích hợp dữ liệu của hệ thống bán hàng, hệ thống nhân sự và hệ thống kế toán, hệ thống nhân sự căn cứ vào các dữ liệu bán hàng tính toán lương cho người lao động và chuyển tới hệ thống kế toán. Hệ thống kế toán căn cứ dữ liệu về tiền lương có chi lương và ghi nhận vào hệ thống các bút toán. Tương tự các chu trình khác sẽ hỗ trợ giảm thiểu việc xử lý, lưu trữ trong HTTTKT, hỗ trợ các quyết định kinh doanh, gia tăng việc sử dụng chung dữ liệu trong toàn hệ thống.
- Hệ thống được ứng dụng công nghệ hiện đại: Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đã ứng dụng nhiều công nghệ hiện đại và các công nghệ này ra đời và tạo nên xu hướng về công nghệ hiện đại trong HTTTKT như ERP, công nghệ điện toán đám mây. HTTTKT khi được áp dụng những công nghệ tiên tiến này sẽ giúp thuận lợi trong quá trình hạch toán, chia sẻ, lưu trữ dữ liệu.
- Tính chính xác: Chức năng của HTTTKT chính xác từ khâu nhập dữ liệu, xử lý đến cung cấp thông tin kế toán. Một hệ thống có sự chính xác phù hợp đặc điểm DN sẽ giúp gia tăng chất lượng hệ thống.
- Hệ thống phản hồi thông tin kịp thời: HTTTKT luôn cung cấp thông tin đúng hoặc trước thời hạn quy định, không chậm trễ. Ngoài cung cấp kịp thời các thông tin bên trong đơn vị, HTTTKT còn phải tương tác kịp thời với các hệ thống của cơ quan thuế, bảo hiểm, ngân hàng, khách hàng, nhà cung cấp.
- Tính linh hoạt của hệ thống khi chuyển đổi sang hệ thống mới: HTTTKT có khả năng thích ứng với điều kiện hoặc thay đổi của môi trường kinh doanh, cập nhật, nâng cấp hệ thống. Vì vậy, tính linh hoạt của hệ thống khi chuyển đổi sang hệ thống mới là một tiêu chuẩn đánh giá chất lượng hệ thống.
- Hệ thống thân thiện với người dùng: Tiêu chí về sự thân thiện của HTTTKT với người dùng phản ánh các giao diện sử dụng trực quan, các chức năng dễ dàng sử dụng.
- Hệ thống được trang bị các tính năng phù hợp: Một số doanh nghiệp trang bị các gói các ứng dụng, các phần mềm có sẵn mà không có thiết kế riêng biệt phù hợp với đặc điểm kinh doanh. Việc này dẫn đến một số tính năng dư thừa trong quá trình sử dụng. Chính vì vậy, một hệ thống được trang bị các tính năng phù hợp với đặc điểm doanh nghiệp, hữu ích sẽ giúp gia tăng chất lượng hệ thống.
- Quá trình xử lý nghiệp vụ của HTTTKT có độ trễ thấp: Các DN có thể sử dụng một hệ thống như ERP, tích hợp các hệ thống con hoặc có tương tác giữa các hệ thống con riêng của từng bộ phận và hoạt động dựa trên cơ sở có sự kết nối mạng nội bộ hoặc internet. Vì vậy, quá trình xử lý nghiệp vụ nhanh gọn, có độ trễ thấp được coi là một tiêu chuẩn để đánh giá chất lượng hệ thống.
Chất lượng HTTTKT trong nghiên cứu này được tác giả đo lường theo hướng: chất lượng hệ thống. Chất lượng hệ thống thể hiện sự tương tác đồng bộ giữa các thành phần cấu thành hệ thống trong quá trình xử lý các giao dịch và là một tiêu chí quan trọng trong đánh giá chất lượng HTTTKT.
2.2.3.3. Tác động của chất lượng hệ thống thông tin kế toán đến hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp
Samuelson và cộng sự (1989) cho rằng: “Hiệu quả là sử dụng một cách hữu hiệu nhất các nguồn lực của nền kinh tế để thỏa mãn nhu cầu mong muốn của con người”. Theo quan điểm này, HQHĐ thường được hiểu là việc sử dụng ít nguồn lực kinh tế nhất để đạt được mục tiêu mong muốn hoặc đạt được nhiều lợi ích nhất từ việc sử dụng một số nguồn lực nhất định trong kinh doanh. Trong những năm gần đây hiệu quả hoạt động đã nhận được sự chú ý của các nhà nghiên cứu và đã sử dụng các phương pháp khác nhau để phân tích. Petersen và Schoeman (2008) cho rằng hiệu quả hoạt động là thước đo về việc DN có thể sử dụng tài sản của mình từ chính phương thức kinh doanh và tạo ra doanh thu. Mặt khác, HQHĐ là kết quả của các hoạt động của một DN trong thời gian nhất định, hoàn thành các mục tiêu kinh doanh cụ thể được đánh giá theo các tiêu chuẩn. Trong mỗi giai đoạn phát triển của DN đều có mục tiêu khác nhau, nhưng mục tiêu bao trùm toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh của DN cuối cùng vẫn là tối đa hóa lợi nhuận trên cơ sở sử dụng tối ưu các nguồn lực của DN. HQHĐ là một trong các công cụ hữu hiệu để các nhà quản trị thực hiện chức năng quản trị của mình. Một số tác giả như Elena và cộng sự (2011), Soudani (2012) đã chứng minh rằng HTTTKT gắn liền và tác động đến hiệu quả hoạt động của DN.
Lebas và Euske (trích dẫn trong Hung, 2017) cho rằng “hiệu quả” như là một cấu trúc phụ thuộc vào bối cảnh, tương đương với các yếu tố như hiệu suất, năng suất, sức cạnh tranh, giảm chi phí, tạo ra giá trị, tồn tại lâu dài và tăng trưởng. Quan điểm này cho rằng hiệu quả là động lực và không phải là mục tiêu một lần. Nó có thể được minh họa bằng cách sử dụng mô hình nhân quả mô tả quá trình kinh doanh hiện tại có thể dẫn đến những kết quả tiềm năng trong tương lai. Hiệu quả là một khái niệm tương đối và đòi hỏi sự phán đoán, giải thích. Mặt khác, hiệu quả có ý nghĩa như một phần so sánh và với các thông số quan trọng của hiệu quả được quyết định bởi người sử dụng thông tin. Hiệu quả chỉ có ý nghĩa trong bối cảnh ra quyết định và khái niệm này được khái quát hóa dựa trên các nhà hoạch định chính sách. Hiệu quả thực sự xảy ra nếu có sự liên kết giữa người ra quyết định cả trong và ngoài tổ chức.
Hiệu quả hoạt động được sử dụng để kiểm tra đánh giá từng yếu tố đầu vào trong phạm vi toàn DN cũng như từng bộ phận cấu thành của DN. Mặt khác, HQHĐ kiểm tra, đánh giá, tổng hợp, phân tích các nguồn lực đầu vào trong phạm vi toàn DN. Do đó, HQHĐ có vai trò rất quan trọng trong việc kiểm tra, đánh giá, phân tích nhằm đưa ra các giải pháp tối ưu nhất, người quản lý sẽ lựa chọn các phương pháp tốt nhất để đạt được mục tiêu của DN. HQHĐ bản chất là mối quan hệ giữa kết quả đạt được
và chi phí bỏ ra, có tính đến các mục tiêu của DN. Vậy mối quan hệ giữa kết quả và hiệu quả như thế nào? Kết quả có thể là những đại lượng có khả năng cân, đo, đong, đếm ví dụ như số lượng sản phẩm tiêu thụ, doanh thu bán hàng, lợi nhuận, thị phần. Kết quả là cơ sở để tính HQHĐ và là mục tiêu của doanh nghiệp.
Như vậy, HQHĐ là những kết quả đạt được gắn mới những mục tiêu xác định với chi phí ít nhất trong khoảng thời gian ngắn nhất. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII ghi rõ: “lấy suất sinh lợi của tiền vốn làm tiêu chuẩn chủ yếu đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh trong các DN kinh doanh, lấy kết quả thực hiện các chính sách xã hội làm tiêu chuẩn chủ yếu đánh giá hiệu quả của DN”. Qua phân tích các quan điểm khác nhau về HQHĐ, có thể rút ra kết luận: Hiệu quả hoạt động phản ánh kết quả sử dụng nguồn lực của DN để đạt được mục tiêu xác định với chi phí thấp nhất hoặc đạt được kết quả cao nhất với chi phí xác định.
Đo lường hiệu quả tương tự như lợi nhuận là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá sự thành công của một DN. Tuy nhiên, mỗi nghiên cứu về hiệu quả hoạt động đều khác nhau vì liên quan đến cách đo lường và số lượng các biến quan sát ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động (Henry, 1975). HTTTKT là một trong những hệ thống quan trọng nhất để đo lường HQHĐ của DN. Khi CNTT và truyền thông ngày càng trở nên phổ biến trên diện rộng và ảnh hưởng trực tiếp đến mọi lĩnh vực của công ty hoạt động, HTTTKT càng chứng tỏ có liên quan trực tiếp đến hiệu quả kinh tế và tài chính hay nói cách khác là HQHĐ của DN. HTTTKT là các hệ thống được sử dụng để ghi lại các giao dịch tài chính của một DN hoặc một tổ chức. Chính vì vậy HTTTKT có chất lượng mới đảm bảo được hiệu quả hoạt động.
Mặc dù một số tác giả đi trước đã nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả của HTTTKT trong DN nhưng cho đến nay chưa có nhiều nghiên cứu về chất lượng HTTTKT tác động đến hiệu quả hoạt động của DN. Trong khi các vấn đề về HTTTKT tác động đến HQHĐ là những câu hỏi quan trọng, nó có ý nghĩa cả về nghiên cứu lẫn thực tế (Nadler và Tushman, 1978). Chan và cộng sự (1997) với nghiên cứu được thực hiện tại Mỹ và Canada về sự phù hợp giữa chiến lược CNTT với chiến lược kinh doanh và HTTT hiệu quả sẽ tác động đến HQHĐ. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng: những DN có sự đầu tư phù hợp giữa chiến lược CNTT với chiến lược kinh doanh và có một HTTT hiệu quả thì HQHĐ sẽ tốt hơn so với các DN không có sự phù hợp trên. Chính sự phù hợp này đã tác động tích cực đến việc đổi mới và phát triển thị trường, giảm các hiệu ứng tiêu cực về danh tiếng và sự hiệu quả tài chính. Tác giả Ismail và Malcolm (2005) với nghiên cứu tìm hiểu các nhân tố tác động đến hiệu quả của HTTTKT trên 771 DN tại Malaysia, kết quả cho thấy kiến thức kế toán của nhà
quản lý, hiệu quả tư vấn của nhà cung cấp phần mềm và hiệu quả tư vấn của các công ty kế toán có ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả của HTTTKT tại các DN ở Malaysia.
Ngày nay điều kiện CNTT phát triển rất mạnh mẽ, ảnh hưởng ngày càng sâu rộng đến công tác kế toán thì việc xây dựng một HTTTKT chất lượng đang trở thành nhu cầu cấp thiết đối với các DN. HTTTKT càng có chất lượng càng giúp cho hoạt động kinh doanh của DN càng hiệu quả. Để nâng cao hiệu quả kinh doanh và kiểm soát tốt thông tin DN thì đòi hỏi phải xây dựng một HTTTKT phù hợp. Tuy nhiên, để thực hiện được mục tiêu đó không phải DN nào cũng làm được. Đa số các DN không biết phải trang bị hệ thống kế toán như thế nào. Saira và cộng sự (2010) kết luận HTTT đã được đa số các DN sử dụng rộng rãi để tự động hóa và tích hợp hoạt động kinh doanh. Nhiều tổ chức áp dụng hệ thống thông tin để nâng cao hiệu quả tổ chức của họ và tăng khả năng cạnh tranh. Từ kết quả nghiên cứu cho thấy các DN sử dụng HTTTKT làm tăng hiệu quả hoạt động trong DN. Mặt khác, Soudani (2012) chỉ ra các DN không sử dụng HTTTKT dẫn đến hiệu quả hoạt động kém do thiếu hồ sơ thông tin DN. Đồng thời, các vấn đề như biến động, nhu cầu hoặc thay đổi thái độ của khách hàng đối với sản phẩm dịch vụ nhất định không thể dễ dàng dự báo hoặc dễ dàng xác định. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra HTTTKT có ảnh hưởng trực tiếp đến mức sinh lợi các DN, HTTT chủ yếu được nhiều tổ chức sử dụng để nâng cao hiệu quả hoạt động bằng cách tự động hóa các hoạt động hiện tại.
Việc sử dụng HTTTKT giúp DN tiết kiệm các chi phí và thời gian vì một loạt các giao dịch có thể xử lý đồng thời. Tuy nhiên Mudashiru và cộng sự (2013), Daw và Peter (2015) cho rằng cần có các nghiên cứu sâu hơn về việc sử dụng HTTTKT để đo lường HQHĐ và các quyết định thực hiện trong các DN. Một số nghiên cứu trước đây cho rằng việc áp dụng HTTTKT làm tăng HQHĐ của DN, lợi nhuận và hiệu quả hoạt động trong các tổ chức tài chính nhưng các nghiên cứu mới đang tập trung ở các nước Malaysia, Tây Ban Nha, Phần Lan, Pakistan và Iran (Kharuddin và cộng sự (2010). Mục đích nghiên cứu của Daw và Peter (2015) nhằm kiểm tra tính hiệu quả của HTTTKT, cho thấy HTTTKT chất lượng có tầm quan trọng rất lớn đối với cả DN và tổ chức, đồng thời hỗ trợ việc ra quyết định, kiểm soát nội bộ, HTTTKT chất lượng sẽ làm cho HQHĐ tốt lên, giảm chi phí. HTTTKT chất lượng sẽ đảm bảo cho các cấp quản lý nhận được thông tin đầy đủ, phù hợp, trung thực để lập kế hoạch và kiểm soát các hoạt động kinh doanh của DN.
2.2.4. Các lý thuyết nền tảng
2.2.4.1. Lý thuyết xử lý thông tin
Từ giữa năm 1973, lý thuyết xử lý thông tin đã được xây dựng bởi Galbraith (Raldolph và Richard, 2005). Lý thuyết xử lý thông tin xoay quanh ba khái niệm gồm khả năng xử lý thông tin, yêu cầu xử lý thông tin và sự tương thích giữa yêu cầu và
khả năng xử lý thông tin nhằm đạt được hiệu quả tối ưu của doanh nghiệp. Các tổ chức cần phải điều tiết thông tin nhằm khắc phục những cái không chắc chắn của môi trường giúp cải tiến việc ra quyết định của họ. Lý thuyết xử lý thông tin cho rằng sự thích hợp của khả năng xử lý thông tin sẽ có một ảnh hưởng rõ rệt đến HQHĐ của DN (Galbraith, 1973). DN có thể áp dụng hai chiến lược để đối phó với sự không chắc chắn của môi trường và gia tăng yêu cầu của thông tin. Chiến lược đầu tiên là cần phải phát triển những nhân tố để giảm thiểu tác động của sự không chắc chắn này; chiến lược thứ hai gia tăng năng lực xử lý thông tin nhằm gia tăng hiệu quả của thông tin và từ đó giảm thiểu tác động của sự không chắc chắn này (Premkumar và cộng sự, 2005). Để thực hiện tốt các chiến lược trên, các tổ chức cần tạo ra sự kết nối giữa yêu cầu và khả năng thông tin.
Lý thuyết xử lý thông tin được các nhà nghiên cứu Tan (1996), Li và Ye (1999) xác định mối quan hệ tích cực giữa chiến lược công ty và chiến lược CNTT. Sự tương thích giữa CNTT và chiến lược doanh nghiệp sẽ có ảnh hưởng tích cực đến HQHĐ trong DN (Cragg và cộng sự, 2002). Dorociak (2007) nghiên cứu tác động của sự đồng bộ giữa chiến lược của DN và HQHĐ của DN cho thấy có sự tác động tích cực giữa chiến lược của tổ chức, chiến lược CNTT và hiệu quả hoạt động của DN. Ngoài ra, các nghiên cứu của El. Louadi (1998); Ismail và King (2005) cho thấy tầm quan trọng của CNTT trong việc hỗ trợ thông tin cho việc ra quyết định.
Trước đây khi còn được sự tài trợ từ phía Ngân sách Nhà nước, các DN XDCTGT chưa thật sự chú trọng đến vấn đề sử dụng thông tin phục vụ cho việc ra quyết định của các nhà quản lý, bởi mọi hoạt động của những DN này đều phải tuân thủ theo quy định về sử dụng nguồn ngân sách cấp. Ngày nay, khi Nhà nước từng bước giao quyền tự chủ, các doanh nghiệp hầu hết đã cổ phần hóa phải tự chịu trách nhiệm, nhất là tự chủ một phần hay toàn diện về tài chính, đòi hỏi các nhà quản lý phải tự quyết định hàng loạt các vấn đề, trong đó có quản lý tài chính. Chính vì vậy, nhu cầu sử dụng thông tin kế toán hữu ích, đặc biệt là HTTTKT có chất lượng phục vụ cho việc ra quyết định được quan tâm hàng đầu. Chính vì lý do trên, lý thuyết về xử lý thông tin đã làm nền tảng cho luận án thiết kế nội dung chất lượng HTTTKT, khi HTTTKT có chất lượng sẽ tác động đến HQHĐ tại các DN XDCTGT.
Ngoài ra, nội dung của lý thuyết xử lý thông tin có đề cập đến vấn đề kỹ thuật xử lý dữ liệu, đã tạo tiền đề để tác giả chọn nhân tố công nghệ thông tin làm nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng HTTTKT tại các DN xây dựng công trình giao thông, bởi CNTT đóng vai trò quan trọng trong quá trình xử lý dữ liệu và cung cấp thông tin của HTTTKT.
2.2.4.2. Lý thuyết hành vi quản lý
Lý thuyết hành vi quản lý được phát minh bởi Simon từ 1947 - Tác giả đã nhận giải Nobel năm 1978 với những đóng góp cho khoa học trong quá trình ra quyết định ở các tổ chức kinh tế thông qua nghiên cứu của mình (Jesper, 1994). Simon đã nhấn mạnh vấn đề quan trọng trong quản lý là thực hiện các quyết định phù hợp mà tác giả gọi là những quyết định trong quản trị bao gồm: “hoạch định kế hoạch, lựa chọn phương thức hành động, thiết lập cơ cấu tổ chức, phân định trách nhiệm và quyền hạn, so sánh tình hình thực tế với kế hoạch, lựa chọn phương án kiểm tra, nắm bắt được các kế hoạch, tổ chức và điều khiển đối với mọi cấp quản lý và mọi mặt của quá trình quản lý”.
Lý thuyết hành vi quản lý chủ yếu là sự thay đổi cần thiết hành vi của nhà quản lý nhằm đưa ra những quyết định quan trọng phù hợp với điều kiện thực tế. Lý thuyết hành vi quản lý là nền tảng để tác giả chọn nhân tố Cam kết của nhân viên gắn bó với DN, Sự hỗ trợ của Ban quản lý cấp cao, Kiến thức của người quản lý làm nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng HTTTKT tại các DNXDCTGT của Việt Nam. Chính hành vi của người quản lý sẽ ra những quyết định liên quan đến chất lượng của HTTT. Cụ thể nhà quản lý sẽ có thái độ và hành động cụ thể như thế nào trong việc cung cấp thông tin hữu ích cho quá trình ra quyết định của nhà đầu tư. Mặt khác sự góp phần thúc đẩy quan trọng cho doanh nghiệp phát triển chính là kiến thức, kỹ năng của người quản lý.
2.2.4.3. Lý thuyết khuếch tán đổi mới
Lý thuyết khuếch tán đổi mới của Roger (1995) là tác phẩm kinh điển về sự lan truyền những ý tưởng mới, nghiên cứu sự khuếch tán và áp dụng các sáng kiến đổi mới. Thông thường sự đổi mới được quan niệm là công nghệ mới hoặc sản phẩm mới tuy nhiên lý thuyết đổi mới cũng có thể được áp dụng cho sự lan truyền các ý tưởng, phương pháp và khái niệm mới. Rogers đã tổng hợp nghiên cứu từ hơn 508 nghiên cứu khuếch tán và đưa ra lý thuyết phổ biến đổi mới cho việc áp dụng đổi mới giữa các cá nhân và tổ chức. Lý thuyết này giải thích về quá trình mà một sự đổi mới được truyền đạt qua các kênh nhất định theo thời gian giữa các thành viên của hệ thống xã hội.
Rogers cho rằng đổi mới là việc áp dụng các hệ thống mới, các chính sách, chương trình, quy trình mới, có thể do bên trong tổ chức hoặc bên ngoài tổ chức tạo ra, Mỗi thành viên trong tổ chức phải tự mình quyết định sự chấp nhận đổi mới theo 5 bước: (1) Kiến thức: là quá trình nhận thức, tìm hiểu, tiếp thu các ý tưởng mới; (2) Thuyết phục: là quá trình phân tích, cân nhắc, xem xét những điểm lợi và không lợi của sự đổi mới; (3) Quyết định: thể hiện rõ sự chấp nhận hoặc lựa chọn từ chối chấp