1.8. Kết cấu luận án
Kết cấu của luận án gồm có 5 chương: Chương 1: Giới thiệu về đề tài nghiên cứu
Chương 2: Tổng quan nghiên cứu và cơ sở lý thuyết các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng hệ thống thông tin kế toán
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu Chương 4: Kết quả nghiên cứu
Chương 5: Thảo luận kết quả nghiên cứu và các khuyến nghị
TÓM TẮT CHƯƠNG 1
Chương 1 luận án đã trình bày lý do lựa chọn đề tài, mang ý nghĩa về lý luận và thực tiễn. Mục tiêu nghiên cứu của luận án là thực hiện nghiên cứu nhằm làm rõ sự tác động các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng HTTTKT tại các DN XDCTGT của Việt Nam. Trên cơ sở mục tiêu nghiên cứu, luận án đưa ra 4 câu hỏi nghiên cứu. Luận án tập trung vào các doanh nghiệp có quy mô vừa đến lớn với lĩnh vực đặc thù XDCTGT của Việt Nam. Kết cấu của luận án được chia thành 5 chương, đồng thời tác giả sử dụng kết hợp phương pháp nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng để phân tích.
Có thể bạn quan tâm!
- Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng hệ thống thông tin kế toán tại các doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông của Việt Nam - 1
- Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng hệ thống thông tin kế toán tại các doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông của Việt Nam - 2
- Chất Lượng Hệ Thống Thông Tin Kế Toán Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Hoạt Động
- Tiêu Chí Đánh Giá Chất Lượng Hệ Thống Thông Tin Kế Toán
- Tác Động Của Chất Lượng Hệ Thống Thông Tin Kế Toán Đến Hiệu Quả Hoạt
Xem toàn bộ 219 trang tài liệu này.
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG HỆ THỐNG THÔNG TIN KẾ TOÁN
2.1. Tổng quan nghiên cứu
2.1.1. Các nghiên cứu về hệ thống thông tin kế toán
Trên thế giới từ những năm 60 của thế kỷ 20 HTTTKT đã xuất hiện cho thấy sự phong phú và đa dạng. Tính đến thời điểm những năm 70, nghiên cứu về HTTTKT tập trung chủ yếu vào khía cạnh hệ thống, tìm kiếm các nền tảng lý thuyết cho việc thiết kế HTTTKT như phân tích HTTTKT ở góc độ người sử dụng Marshall (1972). Cho đến những năm 80, các nghiên cứu có xu hướng tập trung ở khía cạnh mối quan hệ giữa HTTTKT và quản trị doanh nghiệp như một số tác giả Otley (1980), Gordon và Narayanan (1984). Trong giai đoạn này sự kết hợp của các nghiên cứu về HTTT và kế toán đã có những hình thành rõ nét hơn. Nghiên cứu của Chenhall và Morris (1986) cho thấy tác động của cấu trúc tổ chức, môi trường tác động đến nhận thức về tính hữu ích của HTTTKT quản trị; Kim và Lee (1986) nghiên cứu đã khẳng định vai trò của sự tham gia của người sử dụng tác động đến việc sử dụng HTTTKT quản trị.
Đến những năm 90, các nghiên cứu về HTTTKT càng trở nên phong phú và đa dạng cụ thể sự kết hợp chặt chẽ giữa kế toán và CNTT, hệ thống quản trị và các nguồn lực trong DN ERP, nghiên cứu về hành vi kế toán. Nghiên cứu trong giai đoạn này cho thấy vai trò của HTTTKT trong hỗ trợ quản trị DN khi khủng hoảng tài chính (Ezzamel và Boun, 1990). Việc kết hợp nghiên cứu HTTT và HTTTKT trong giai đoạn này được thể hiện rõ nét qua kết quả nghiên cứu về ERP như Davenport (1998), Callaway (1999) trong việc xác định bản chất của ERP, tác động của ERP đến thành quả hoạt động của DN cho đến các nghiên cứu triển khai ứng dụng ERP, thành công của ERP như Holland và Light (1999) hay Rosemann và Wiese (1999). Trong giai đoạn từ 2000-2009, các nhà nghiên cứu ở Việt Nam cũng bắt đầu có những nghiên cứu hàn lâm về HTTTKT như tác giả Trần Phước (2007) đề cập đến khía cạnh ứng dụng phần mềm kế toán trong DN Việt Nam. Tuy nhiên giai đoạn này chủ yếu là các nghiên cứu nước ngoài như Wheeler và cộng sự (2004), Ismail và Malcolm (2007), Hossien và cộng sự (2008), nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng dữ liệu kế toán đóng góp cho lý thuyết HTTTKT. Mối quan hệ giữa HTTTKT và ERP cũng được các nhà nghiên cứu làm rõ ảnh hưởng của việc ứng dụng ERP đến HTTTKT như tác giả Spathis và Ananiadis (2005), Spathis (2006).
Gần đây nhất (từ những năm 2010 đến nay), có sự thay đổi vượt bậc trong nghiên cứu HTTTKT của các tác giả. Các ứng dụng CNTT, các ứng dụng, phạm trù mới như dữ liệu lớn - Big Data, sự bùng nổ của mạng xã hội, điện toán đám mây, khả năng chia sẻ dữ liệu đã làm HTTTKT thay đổi. Giai đoạn này, các nghiên cứu chuyên sâu hơn về hệ thống quản trị nguồn lực DN hay chia sẻ tri thức trong HTTTKT. Một số tác giả đi theo hướng tổng kết lý thuyết về HTTTKT hay đề xuất các mô hình nghiên cứu mới như Belfo và Trigo (2013), Budiarto và Prabowo (2015), Smith (2016). Các tác giả khác chủ yếu nghiên cứu thực nghiệm về HTTTKT tại các quốc gia đang phát triển, về tác động ERP đến chất lượng dữ liệu của HTTTKT như Ghasemi và cộng sự (2011), Al-Hiyari và cộng sự (2013), Prasad và Green (2015) hoặc các nghiên cứu về tổ chức HTTTKT của Tô Hồng Thiên (2017), ứng dụng điện toán đám mây để phát triển HTTTKT của Nguyễn Thị Thu Thủy và Nguyễn Thị Hải Ly (2017). Phần lớn các DN Việt Nam đã và đang có HTTTKT phục vụ công tác quản lý, mặc dù có những quy mô và mức độ khác nhau nhưng cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu thông tin cho nhiều đối tượng khác nhau trong và ngoài doanh nghiệp và cho quản trị nội bộ công ty. Việc thực hiện tổ chức công tác kế toán và HTTTKT ở các doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều hạn chế như: thực hiện công tác kế toán còn sơ sài, lạc hậu, nhiều nội dung trùng lắp, các phương pháp kỹ thuật vận dụng còn đơn giản. Các DN chưa chú ý đến khai thác, sử dụng các phương tiện, kỹ thuật xử lý thông tin hiện đại. Hiện nay chủ yếu các DN Việt Nam vẫn sử dụng Excel và phần mềm kế toán trong quá trình xử lý kế toán, tổ chức công tác kế toán thiếu sự kết nối, tính ổn định, định hướng giữa thông tin phục vụ quản lý, điều hành. Với nghiên cứu trên, chúng ta cũng chỉ thấy được thực trạng HTTTKT, xây dựng HTTTKT tại các doanh nghiệp trên thế giới và Việt Nam, chưa thấy được chất lượng của HTTTKT và tác động của chất lượng HTTTKT đến HQHĐ trong các DN.
2.1.2. Các nghiên cứu về chất lượng hệ thống thông tin kế toán
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều quan điểm để đo lường chất lượng HTTTKT. Mục tiêu để đo lường chất lượng HTTTKT được phân tích bởi Gelinas và cộng sự (2012) bao gồm sự phù hợp, tính kịp thời, tính chính xác và đầy đủ. Đứng trên góc độ khách quan, đó là sự liên quan nếu thông tin có khả năng làm thay đổi tình huống ra quyết định bằng cách giảm bớt sự không chắc chắn hoặc nâng cao kiến thức về từng quyết định cụ thể. Thông tin khi không cung cấp kịp thời có thể làm cho thông tin đó không còn giá trị (Gelinas và cộng sự, 2012). Các nghiên cứu đánh giá chất lượng HTTTKT và xác định các thuộc tính chất lượng HTTT là chìa khóa để đo lường các chỉ số chất lượng của HTTTKT. Chất lượng của HTTTKT được sử dụng để lập kế
hoạch, thực hiện, ghi lại, giám sát và kiểm soát tình hình tài chính và các giao dịch kế toán. Quan điểm chất lượng trong HTTTKT đó là một HTTTKT tin cậy sẽ tạo ra thông tin có chất lượng (Rommey và Steinbart, 2012). Thảo luận về mô hình đo lường chất lượng HTTTKT, Ivana và Ana (2013) chỉ ra thang đo chất lượng HTTTKT bao gồm:
(1) Tính dễ dàng sử dụng; (2) Tính linh hoạt; (3) Tính thích hợp; (4) Tính chính xác.
Chất lượng HTTTKT là sự kết hợp đồng thời của các yếu tố như tính chính xác, độ tin cậy, an ninh, tính linh hoạt, tính kịp thời, khả năng kiểm toán và sự hài lòng của người dùng. Dựa theo mô hình của Syaifullah (2014) thang đo chất lượng HTTTKT phụ thuộc vào sự kết hợp đúng đắn của các yếu tố như tính hiệu quả, tính hữu ích và tính tích hợp. Cụ thể các thang đo của các yếu tố như sau: (1) Tính hiệu quả bao gồm việc sử dụng nguồn tài nguyên thiết bị hiệu quả và trong quá trình thực hiện HTTTKT được hỗ trợ bởi nguồn nhân lực phù hợp với chuyên môn khi cần thiết; (2) Tính hữu ích bao gồm quá trình thực hiện HTTTKT thuận lợi hay dễ dàng truy cập các thông tin kế toán được tạo ra bởi HTTTKT; (3) Tính tích hợp bao gồm năng lực (kiến thức, kỹ năng hoặc chuyên môn) phù hợp với mức độ trong HTTTKT, sử dụng dữ liệu trong cơ sở dữ liệu một cách hài hòa; các hoạt động giữa các tổ chức với nhau cần phải thực hiện trong cùng một quy trình xử lý, tạo thành một dữ liệu thống nhất.
Nusa (2015) cho rằng chất lượng HTTTKT đo lường bằng sự thành công của HTTT như kỹ thuật, dễ dàng sử dụng, chức năng, độ tin cậy, tính linh hoạt, linh động và hội nhập. Laudon và Jane (2015) nhận định rằng chất lượng HTTTKT được đo lường dựa trên chất lượng của HTTT, để thực hiện tốt các hoạt động của mình tất cả các công ty đều cần có một HTTTKT chất lượng. Nếu thông tin trong tổ chức có chất lượng tốt thì tổ chức sẽ hoạt động tốt. Khi đánh giá một HTTTKT có chất lượng, có thể thấy từ những đặc điểm của HTTTKT như tính linh hoạt, tính thực tiễn, khả năng sử dụng, hội nhập, tính khả dụng.
Thang đo chất lượng HTTTKT của Mona và Anik (2017) bao gồm: (1) Hệ thống có thể giúp bộ phận hoạt động hoạt động tốt; (2) Hệ thống là một trong những nhân tố thành công quan trọng trong bộ phận công ty; (3) Hệ thống có thể làm tăng sự hài lòng trong công việc; (4) Hệ thống luôn cung cấp thông tin ngay khi các bộ phận cần; (5) Cá nhân có xu hướng sử dụng hệ thống cung cấp; (6) Các phòng ban trong công ty có thể hoàn thành công việc một cách hiệu quả bằng cách sử dụng hệ thống;
(7) Hệ thống có những đóng góp đạt được mục tiêu và nhiệm vụ của tổ chức; (8) Hầu hết các nhân viên bộ phận quan tâm đến việc sử dụng hệ thống; (9) Hệ thống được hỗ trợ thông tin chính xác và đáng tin cậy; (10) Hệ thống có thể dễ dàng điều chỉnh theo nhu cầu phát triển thông tin hiện tại hoặc trong tương lai. Cùng thời điểm, Omran
(2017) đã xác định bảy khía cạnh về chất lượng HTTTKT trong nghiên cứu bao gồm: tính chính xác, khả năng kiểm toán, tính phù hợp, tính bảo mật, tính kịp thời, tính linh hoạt và sự hài lòng của người sử dụng.
Dựa trên nghiên cứu của Sajady và cộng sự (2008), Vũ Thị Thanh Bình (2018) đã đo lường chất lượng HTTTKT với 5 câu hỏi thiết kế sử dụng thang đo Likert 5 điểm: (1) Cải thiện chất lượng của hệ thống báo cáo tài chính; (2) cung cấp thông tin trợ giúp ban giám đốc ra các quyết định kinh doanh; (3) hỗ trợ hệ thống kiểm soát nội bộ hiệu quả hơn; (4) giúp cải tiến quá trình đánh giá hiệu quả làm việc; (5) giúp thực hiện các nghiệp vụ kế toán thuận tiện. Gần đây nhất, Susanto và cộng sự (2019) đo lường chất lượng HTTTKT bao gồm: (1) Tích hợp giữa các thành phần của hệ thống với hệ thống; (2) Tính tích hợp giữa hệ thống với môi trường làm việc; (3) Thể hiện được chính xác chức năng của HTTTKT từ khâu nhập dữ liệu, xử lý đến cung cấp thông tin kế toán; (4) Bảo mật HTTTKT từ khâu nhập dữ liệu, xử lý đến cung cấp thông tin kế toán; (5) Khả năng của hệ thống thích ứng với các nhu cầu khác nhau của người dùng; (6) Khả năng của hệ thống thích ứng với điều kiện hoặc môi trường thay đổi; (7) Dễ sử dụng; (8) Dễ học hỏi (Dễ tìm hiểu). Dựa trên quan điểm của Al-Ibbini (2017), Đoàn Thị Chuyên (2020) đo lường chất lượng HTTTKT bao gồm: (1) Sự chính xác; (2) Khả năng kiểm toán; (3) Sự phù hợp; (4) Tính bảo mật; (5) Tính kịp thời; (6) Tính linh hoạt; (7) Sự hài lòng của người sử dụng.
2.1.3. Các nghiên cứu về nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng hệ thống thông tin kế toán
Ngày nay, chất lượng HTTTKT đã nhận được rất nhiều sự quan tâm của các tác giả, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Kế thừa mô hình của hai nhà nghiên cứu Delone và McLean, tác giả Ivana và Ana (2013) bằng phương pháp nghiên cứu thực nghiệm đã phân tích các đặc điểm cơ bản của chất lượng HTTTKT, thảo luận về mô hình đo lường chất lượng HTTTKT. Đồng thời dựa trên ba nghiên cứu thực nghiệm được tiến hành vào năm 2001, 2008 và 2012 tại các DN vừa và lớn ở Croatia. Những người được hỏi là nhân viên kế toán tại DN và sử dụng thang điểm Likert 5 điểm (từ rất không đồng ý đến rất đồng ý). Sau khi loại bỏ các câu hỏi không đầy đủ hoặc những câu hỏi không đáp ứng các tiêu chí đã đặt ra, số lượng câu hỏi được xử lý cuối cùng là 142 (tỷ lệ trả về của câu hỏi 12,68%). Tác giả kết luận rằng CNTT ảnh hưởng đến chất lượng HTTTKT, đóng góp cho việc xử lý, trình bày và cung cấp thông tin kế toán.
Nhằm xác định ảnh huởng của các nhân tố đến chất lượng HTTTKT với cỡ mẫu quan sát là 33 DN ở Indonesia, Rapina (2014) đã kết luận rằng Cam kết của nhân viên gắn bó với DN, Văn hóa DN và Cơ cấu tổ chức (các biến độc lập) có ảnh huởng trực tiếp tới chất lượng HTTTKT (biến phụ thuộc). Tác giả chỉ ra rằng các biến độc lập chỉ giải thích được 67% sự thay đổi của chất lượng HTTTKT, 33% sự thay đổi được giải thích bởi các yếu tố bên ngoài mô hình. Phân tích dữ liệu thông qua phần mềm LISREL 8.70. Đồng thời nghiên cứu chỉ ra cả 3 nhân tố đều tác động đến chất lượng HTTTKT. Cũng nghiên cứu về nhân tố Cam kết của nhân viên gắn bó với doanh nghiệp, Syaifullah (2014) sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính: sử dụng nguồn dữ liệu thứ cấp, sau đó phân tích thống kê mô tả. Nghiên cứu chỉ ra được nhân tố Cam kết của nhân viên gắn bó với DN có ảnh hưởng tích cực đến chất lượng hệ thống thông tin kế toán, kết quả này phù hợp với nghiên cứu lý thuyết của Bernier và Potter (2001).
Cùng bối cảnh và thời gian nghiên cứu ở Bandung (Indonexia), tác giả Meiryani (2014) đánh giá ảnh hưởng của sự tham gia người sử dụng đến chất lượng HTTTKT. Nghiên cứu được thực hiện tại 55 trường đại học ở thành phố Bandung thông qua các bảng câu hỏi. Meiryani (2014) sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng được thực hiện tại 55 trường đại học ở thành phố Bandung. Dữ liệu được sử dụng trong nghiên cứu này bằng cách thu thập dữ liệu thông qua bảng câu hỏi. Người trả lời của nghiên cứu này là người sử dụng HTTTKT. Phương pháp được sử dụng là PLS 2.0. Kết luận của nghiên cứu chỉ ra Sự tham gia của người sử dụng có ảnh hưởng tích cực đến chất lượng HTTTKT. Trong một nghiên cứu khác, Meiryani (2014) dựa các nghiên cứu đi trước như Susanto (2009), Hall (2011), Pornpandejwittaja and Pairat (2012) kết hợp với các cơ sở lý thuyết về ban quản lý cấp cao và vai trò của ban quản lý cấp cao đối với chất lượng HTTTKT đã xác định nhân tố Sự hỗ trợ của ban quản lý cấp cao ảnh hưởng đến chất lượng HTTTKT. Nghiên cứu phân tích bằng thống kê mô tả, kết quả chỉ ra Sự hỗ trợ của ban quản lý cấp cao có ảnh hưởng tích cực đến chất lượng HTTTKT. Đến năm 2015, Meiryani tiếp tục nghiên cứu ảnh hưởng chiến lược kinh doanh đến chất lượng HTTTKT. Tuy nhiên đây là một nghiên cứu lý thuyết về vai trò của chiến lược kinh doanh đối với chất lượng của HTTTKT. Dựa vào nghiên cứu năm 2014 của mình, tác giả kết luận chiến lược kinh doanh giúp cải thiện chất lượng của HTTTKT. Như vậy các nghiên cứu của Meiryani đều kiểm định duy nhất một nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng HTTTKT và mang tính chất nghiên cứu định tính là chủ yếu.
Tại Indonexia, Nusa (2015) và Wisna (2015) đều kiểm định nhân tố Văn hóa doanh nghiệp đến chất lượng HTTTKT. Wisna (2015) sử dụng phương pháp khảo sát
sau đó phát bảng câu hỏi với đơn vị phân tích trong nghiên cứu là nhân viên kế toán và giám đốc của 75 trường cao đẳng Indonexia. Trong nghiên cứu của Nusa (2015) thì thu thập bảng hỏi từ các nhân viên kế toán, trưởng phòng, phó hiệu trưởng của 45 trường đại học ở Indonexia. Cả hai tác giả đều phân tích dữ liệu bằng phương pháp phân tích hồi quy tuyến tính để kiểm định các giả thuyết nghiên cứu và chỉ ra rằng Văn hóa DN có ảnh hưởng đến chất lượng HTTTKT. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của Nusa còn chỉ ra rằng nhân tố Cơ cấu tổ chức cũng ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng HTTTKT. Các tác giả cũng gợi ý cho các hướng nghiên cứu tiếp sau này cần nghiên cứu tại các đơn vị khác nhau, địa điểm khác nhau để kết luận về chất lượng HTTTKT ảnh hưởng bởi các nhân tố trên.
Barki (2016) cũng nghiên cứu nhân tố Văn hóa doanh nghiệp ảnh hưởng đến chất lượng HTTTKT. Tuy nhiên, tác giả kết hợp thêm nhân tố ứng dụng CNTT đến chất lượng HTTTKT. Dựa trên kết quả các nghiên cứu trước của Sajadi (2008), George và Jones (2012), Susanto (2013) tác giả kết luận rằng: (1) Công nghệ thông tin ảnh hưởng đến chất lượng HTTTKT, sử dụng HTTTKT hiệu quả đòi hỏi sự hiểu biết về tổ chức, quản lý và CNTT hình thành nên hệ thống. Việc sử dụng công nghệ thông tin trong tổ chức nhằm cung cấp thông tin cho người dùng; (2) Văn hóa doanh nghiệp ảnh hưởng đến chất lượng HTTTKT, ở giai đoạn thiết kế và thực hiện của hệ thống, yêu cầu phải chú ý đến thành phần chính của tổ chức đó là thông tin, HTTT chịu sự ảnh hưởng đáng kể bởi văn hóa của doanh nghiệp. Tuy nhiên tác giả mới chỉ dừng ở phương pháp nghiên cứu định tính và đưa ra kết luận dựa trên các nghiên cứu trước.
Tại Nigeria – Châu Phi, Ojua (2016) nhằm mục đích đo lường mối quan hệ giữa việc sử dụng các phần mềm kế toán và chất lượng của HTTTKT, sẵn sàng cho việc ra quyết định kinh doanh giữa các công ty tại Nigeria. Nghiên cứu sử dụng phương pháp khảo sát và tác giả đã kế thừa của các tác giả đi trước như Alzoubi (2011); Galani và cộng sự (2010); Rodney (2009). Bảng hỏi được thu thập từ 150 kế toán viên của các DN ở Nigeria. Sau đó phân tích kết quả bằng cách sử dụng các công cụ thống kê và kiểm tra KolmogoroveSmirnov. Kết quả nghiên cứu có ý nghĩa đối với nhà quản lý và nhân viên kế toán của công ty khi họ chấp nhận phần mềm kế toán là một nguồn lực không thể tách rời của tổ chức nhưng nguồn lực này không được sử dụng đầy đủ do thái độ của nhà quản lý và việc đào tạo kém. Như vậy, tác giả nhận định hầu hết các công ty Nigeria chưa khám phá đầy đủ tiềm năng của phần mềm kế toán để nâng cao chất lượng HTTTKT. Các nhân viên kế toán trong công ty nên cập nhật kỹ năng của họ thông qua đào tạo để có thể sử dụng tối đa lợi ích mà phần mềm kế toán mang lại, các nhà quản lý nên đẩy mạnh việc sử dụng các phần mềm kế toán