Tổng Hợp Các Nhóm Dạng Lập Địa Vùng Cát Ven Biển Khu Vực Nghiên Cứu



TT


Địa hình, địa mạo


Loại đất cát


Độ cao

Khả năng thoát nước, giữ nước của đất cát

Thảm thực vật chỉ thị


Không có cây cỏ (T1)

Cỏ chịu hạn, cây bụi chịu hạn

(T2)

Trảng truông, rú (T3)

Cỏ ưa ẩm, chịu ẩm; cây bụi

chịu ẩm (T4)

Sau khai thác rừng trồng vùng cát (T5)

(1)

(2)

(3)

(4)

(5)




xuyên (N)







Đất cát biển (C)

Từ 1m đến 5m (H2)

Không ngập

(K)

BCH2KT1

BCH2KT2

BCH2KT3

-

BCH2KT5

Từ 1m đến 5m (H2)

Ẩm ướt mùa

mưa (A)

BCH2AT1

BCH2AT2

-

BCH2AT4

BCH2AT5

Dưới 1m (H1)

Ẩm ướt quanh

năm (An)

BCH1AnT1

-

-

BbCH1AnT4

-


4

Cồn cát, bãi cát nhân tác (NT)

Cồn cát

trắng, vàng (Cc)

Từ 1m đến 5m (H2)

Không ngập (K)


NT


-


NT


-

Từ 5m đến 15m (H3)

Đất cát

biển (C)

Từ 1m đến 5m (H2)

Bán ngập mùa

mưa (M)

Dưới 1m (H1)

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 207 trang tài liệu này.

Ghi chú: (-) trên thực tế không hình thành các dạng lập địa này; (*) (BCH2AKT5 và BCH2AT5) là những dạng lập địa không được phép khai thác rừng phòng hộ, tuy nhiên, có thể trồng bổ sung gia cố đai rừng Phi lao ven biển; NT: Trên dạng địa hình địa mạo đụn cát cồn cát nhân tác ít nhiều đều xuất hiện ở hầu hết các dạng thảm thực bì, tùy thuộc vào thời gian tác động mà hình thành các dạng thảm thực bì. Tuy nhiên, dạng thảm thực bì T3 (trảng, truông, rú) và T5 (sau khai thác rừng trồng vùng cát) là không tồn tại ở dạng đụn cát cồn cát nhân tác. Đối với dạng địa hình địa mạo này để có thể trồng rừng đều phải tiến hành cải tạo như san ủi để tạo mặt bằng. Vì vậy, luận án chỉ để chung một dạng lập địa NT.


Dựa trên các chỉ tiêu và tiêu chí về (i) địa hình, địa mạo; (ii) loại đất cát; (iii) độ cao so với mực nước biển; (iv) khả năng thoát, giữ nước của đất cát ven biển và (iv) thảm thực bì chỉ thị khu vực nghiên cứu có thể phân chia thành 4 nhóm dạng lập địa, với 38 dạng lập địa chủ yếu, trong đó (1) nhóm dạng lập địa I có 6 dạng (ĐCcH2KT1, ĐCcH2KT2, ĐCcH3KT1, ĐCcH3KT2, ĐCcH4KT1 và ĐCcH4KT2); (2) nhóm dạng lập địa II có 9 dạng (CCcH2KT1, CCcH2KT2, CCcH2KT3, CCcH3KT1, CCcH3KT2,

CCcH3KT3, CCcH4KT1, CCcH4KT2 và CCcH4KT3); (3) nhóm dạng lập địa III được chia thành 4 dạng phụ, với 22 dạng lập lập địa, bao gồm: III1 có 3 dạng (BCcH2KT2, BCcH2KT3, BCcH2KT5); III2 có 11 dạng (BCcH2AT2, BCcH2AT4, BCcH2AT5, BCcH2AnT4, BCcH2AnT5, BCH2AT1, BCH2AT2, BCH2AT4, BCH2AT5, BCH1AnT1 và BbCH1AnT4); III3 có 4 dạng (BCH2KT1, BCH2KT2, BCH2KT3 và BCH2KT5); và III4 có 4 dạng (BCcH1MT4, BCcH1MT5, BCcH1NT1, BCcH1NT4)

và (4) nhóm dạng lập địa IV có 1 dạng lập địa (NT).

Bảng 3.9. Tổng hợp các nhóm dạng lập địa vùng cát ven biển khu vực nghiên cứu



TT

Nhóm

dạng lập địa


Các dạng lập địa chủ yếu

1

I

ĐCcH2KT1, ĐCcH2KT2, ĐCcH2KT1, ĐCcH2KT2,

ĐCcH2KT1, ĐCcH2KT2


2


II

CCcH2KT1, CCcH2KT2, CCcH2KT3, CCcH3KT1, CCcH3KT2, CCcH3KT3, CCcH4KT1, CCcH4KT2,

CCcH4KT3


3


III

III1

BCcH2KT2, BCcH2KT3, BCcH2KT5


III2

BCcH2AT2, BCcH2AT4, BCcH2AT5, BCcH2AnT4,

BCcH2AnT5, BCH2AT1, BCH2AT2, BCH2AT4, BCH2AT5, BCH1AnT1, BbCH1AnT4

III3

BCH2KT1, BCH2KT2, BCH2KT3, BCH2KT5

III4

BCcH1MT4, BCcH1MT5, BCcH1NT1, BCcH1NT4

4

IV

NT

Như vậy, trên cơ sở tổ hợp 5 tiêu chí với 20 chỉ tiêu và kết hợp với kết quả điều tra những dạng lập địa có tồn tại ngoài thực địa, luận án đã phân chia thành 4 nhóm dạng lập địa, với 38 dạng lập địa chủ yếu, trong đó, nhóm dạng lập địa III có 4 nhóm phụ (III1, III2, III3 và III4) và các nhóm dạng lập địa I, II và IV không có nhóm phụ. Sở dĩ, nhóm dạng lập địa III được chia thành 4 nhóm phụ bởi liên quan đến chế độ


thoát nước, giữ nước của đất cát, gồm: không ngập (III1 và III3), ẩm ướt mùa mưa, ẩm ướt quanh năm (III2), và bán ngập mùa mưa, ngập thường xuyên (III4). Theo đó, sẽ ảnh hưởng đến các biện pháp kỹ thuật làm đất (như có lên líp hay không lên líp, lên líp đôi hay lên líp đơn cho phù hợp). Ở nhóm dạng lập địa I, II đều có chế độ không ngập nước nên không chia nhỏ thành các dạng phụ. Riêng đối với nhóm dạng lập địa IV, luận án gộp chung thành một dạng duy nhất, bởi các cồn cát, bãi cát nhân tác trước khi có thể trồng hoàn lại rừng cần phải san ủi tạo mặt bằng.

Kết quả ở nghiên cứu này cần phải diễn giải và đặt trong bối cảnh các nghiên cứu trước. Một nghiên cứu trước đây tại ba tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế (Nguyễn Xuân Quát & Đặng Văn Thuyết, 2005; Đặng Văn Thuyết, 2004) [70], [93] đã phân chia thành 3 nhóm lập địa I, II và III với 21 dạng lập địa với hướng sử dụng chính của nhóm I và II chủ yếu cho trồng rừng phòng hộ có kết hợp sản xuất nông nghiệp và nhóm III chủ yếu dành cho sản xuất nông nghiệp có kết hợp với phòng hộ. Kết quả ở nghiên cứu này đặt trong bối cảnh các kết quả của các nghiên cứu vừa kể trên, nhất quán với quan điểm cho rằng các nhóm, dạng lập địa phân chia chịu ảnh hưởng trực tiếp của 2 chế độ nước cực đoan: (i) các đụn cát, cồn cát, bãi cát cao có mực nước ngầm sâu dễ bị nguy cơ gió hại liên quan đến nạn cát bay và (ii) các thung, bãi cát thấp bán ngập hoặc ngập nước dễ bị nguy cơ thủy hại liên quan đến nạn cát chảy. Bên cạnh đó, các loài cây trồng rừng sinh trưởng phát triển khá trên những nhóm, dạng lập địa là những cồn cát, bãi cát cố định; chế độ nước không ngập và khả năng thoát nước tốt so với những nhóm, dạng lập địa là bãi cát cố định ẩm ướt mùa mưa. Trên những dạng lập địa cát di động mạnh, Phi lao mọc lòa xòa, phát triển chồi ngang (Vũ Văn Mễ, 1990) [59]. Các loài cây Phi lao, Keo lá tràm và Keo lá liềm thích hợp trên bãi cát cố định hoặc bãi cát thấp được lên líp; Keo chịu hạn thích hợp trên bãi cát cao (Đặng Văn Thuyết, 2004) [93]. Keo lá liềm sinh trưởng tốt hơn hẳn so với các loài cây Keo tai tượng, Keo chịu hạn và Phi lao dòng 601 khi trồng trên cùng dạng lập địa đất cát cố định không ngập hoặc bán ngập (Nguyễn Thị Liệu, 2018) [57].

Trong nghiên cứu này, tiêu chí (i) địa hình địa mạo có bổ sung dạng cồn cát, bãi cát nhân tác – nơi bị xóa trộn bởi các hoạt động khai thác và tận thu sa khoáng titan, khai tác cát làm vật liệu xây dựng, hoạt đông nuôi trồng thủy sản trên cát; (ii) loại đất cát được áp dụng 2 loại chính (cồn cát trắng, vàng và đất cát biển) – là hai loại đất cát chính và đã được số hóa trên bản đồ loại đất, thay vì 7 nhóm đất cát khác nhau (Phan Liêu, 1981) [52] hoặc 9 loại (Đào Công Khanh & Đặng Văn Thuyết, 1997) [49] hoặc 11 loại (Nguyễn Xuân Quát & Đặng Văn Thuyết, 2005; Đặng Văn Thuyết, 2004) [70], [93]; (iii) bổ sung tiêu chí độ cao của các cồn cát, đụn cát và bãi


cát ven biển với 4 cấp độ cao: H1 (< 1m), H2 (1 - 5m), (iii) H3 (5 - 15m) và (iv) H4 (> 15m); (iv) trạng thái thực bì có gộp dạng cỏ chịu hạn, cây bụi chịu hạn vào một nhóm; dạng cỏ ưa ẩm, chịu ẩm và cây bụi chịu ẩm vào một nhóm so với 8 loại (Nguyễn Xuân Quát & Đặng Văn Thuyết, 2005; Đặng Văn Thuyết, 2004) [70], [93] và bổ sung thêm dạng thực bì sau khai thác rừng trồng vùng cát (chu kỳ sau) ven biển khu vực nghiên cứu. Đây căn cứ để phân chia các nhóm dạng lập địa thích hợp cho trồng rừng phòng hộ chắn gió, chắn cát bay ven biển cũng như quy hoạch, kế hoạch trồng rừng phòng bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, một số hạn chế của nghiên cứu này cũng cần được ghi nhận ở đây. Trước hết, chúng tôi chưa có điều kiện để xây dựng bản đồ phân chia nhóm dạng lập địa cũng như kiểm chứng ngoài thực địa cho một địa phương cụ thể. Tuy đây là một nhược điểm, nhưng vì việc khảo sát một vùng rộng lớn và số hóa được tất cả các 20 tiêu chí lên bản đồ cần rất nhiều thời gian và công sức. Ngoài ra, cũng như bất cứ công trình nghiên cứu nào cũng cần phải có những nghiên cứu dài hơi để kiểm chứng, ứng dụng và điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện thực tiễn tại mỗi địa phương vốn đang chịu ảnh hưởng của các hoạt động sản xuất và biến đổi khí hậu.

3.2. Đánh giá các biện pháp kỹ thuật trồng rừng phòng hộ và sinh trưởng các lâm phần rừng trồng trên một số nhóm dạng lập địa vùng cát ven biển

3.2.1. Đánh giá biện pháp kỹ thuật trồng rừng vùng cát ven biển

a) Hiện trạng rừng vùng cát ven biển

Đến 31/12/2020 các huyện ven biển (14 huyện) của 3 tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, và Quảng Trị có 628.279 ha rừng trên đất, cát ven biển, trong đó, có 13.480 ha rừng trên cát, chiếm 2,1% tổng diện tích có rừng của các huyện ven biển, với 7.796 ha rừng sản xuất (57,8%) và 5.684 ha rừng phòng hộ (42,2%). Diện tích rừng trên cát tập trung chủ yếu tại các huyện ven biển tỉnh Quảng Trị với diện tích 8.167 ha, chiếm 60,6% tổng diện tích rừng trên cát của các huyện ven biển 3 tỉnh; tiếp đến các huyện ven biển tỉnh Quảng Bình có 4.051 ha (30,1%), và thấp nhất, các huyện ven biển tỉnh Hà Tĩnh có 1.261 ha (9,4%) (Bảng 3.10).

RPH chủ yếu trồng trên những diện tích cát di động, cát ven biển nên cây trồng sinh trưởng, phát triển chậm (chủ yếu là Keo lá tràm và Phi lao). Bên cạnh đó, do trồng trên các lập địa khó khăn, rất khó khăn (cát trắng, cát di động; khô hạn, nghèo dinh dưỡng) nên tỷ lệ thành rừng chưa cao, chưa phát huy tối đa chức năng phòng hộ chắn gió, chắn cát bay ven biển và giảm thiểu, thích ứng với BĐKH.


Bảng 3.10. Diện tích rừng trên đất, cát ven biển khu vực nghiên cứu


Khu vực nghiên cứu

Diện tích có rừng (ha)

Theo mục đích sử dụng (ha)

Tổng

Đặc

dụng

Phòng

hộ

Sản

xuất

Hà Tĩnh

Diện tích có rừng

90.210

15.430

34.261

40.518

Diện tích rừng trên cát

1.261

0

599

662

Quảng Bình

Diện tích có rừng

224.186

22.328

61.292

140.566

Diện tích rừng trên cát

4.051

0

964

3.087

Quảng Trị

Diện tích có rừng

313.883

22.502

89.361

202.020

Diện tích rừng trên cát

8.167

0

4.121

4.047

Tổng

Diện tích có rừng

628.279

60.260

184.915

383.104

Diện tích rừng trên cát

13.480

-

5.684

7.796

Tỷ lệ % diện tích rừng trên cát/

diện tích có rừng

2,1

-

3,1

2,0

Nguồn:(Bộ NN&PTNT, 2021) [19]

Giai đoạn 2015 - 2020, các tỉnh ven biển nói chung và các tỉnh khu vực nghiên cứu nói riêng tiếp tục thực hiện chính sách giao đất, khoán rừng theo Luật Đất đai và Nghị định 168/2016/NĐ-CP, trong đó, khu vực nghiên cứu đã giao khoán bảo vệ rừng được 21.736 ha, chăm sóc được 2.159 ha (tập trung tại Quảng Bình), trồng mới rừng chắn gió chắn cát bay ven biển được 951 ha, chiếm 74,1% diện tích trồng mới rừng các tỉnh BTB (1.283 ha). Tuy nhiên, quá trình triển khai công tác giao đất, khoán bảo vệ rừng ở các địa phương còn chậm so với tiến độ quy hoạch sử dụng đất, chưa thống nhất giữa quy hoạch lâm nghiệp với các quy hoạch khác. Mức khoán bảo vệ rừng đã áp dụng chính sách khoán bảo vệ rừng theo Nghị định 119/2016/NĐ-CP với mức phổ biến từ 300 - 500 nghìn đồng/ha/năm, bằng 1,5 lần so với mức khoán bảo vệ chung cho rừng phòng hộ, rừng đặc dụng.

Hiện nay, do áp lực gia tăng dân số và nhu cầu phát triển kinh tế địa phương nên một số diện tích rừng trên cạn ven biển được chuyển đổi mục đích sử dụng sang qui hoạch cho các khu dân cư, cơ sở hạ tầng, khu du lịch ven biển. Việc đầu tư phát triển kinh tế, xã hội cho các xã đặc biệt khó khăn ven biển được thực hiện theo QĐ số 539/QĐ-TTg ngày 01/04/2013 của Thủ tướng Chính phủ, trong đó, các huyện ven biển khu vực nghiên cứu có 62 xã (Hà Tĩnh có 32 xã, Quảng Bình 17 xã và Quảng Trị 13 xã) thuộc đối tượng các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được trong bảo vệ và phát triển RPH ven biển, còn những tồn tại, bất cập cần sớm được khắc phục như: rà soát việc chuyển đổi mục đích


sử dụng rừng, đất rừng qui hoạch RPH ven biển sang các mục đích sử dụng khác, vấn nạn khai thác titan, sa khoáng, vật liệu xây dựng, nuôi tôm trên cát... đã và đang là mối nguy hại đến các đai RPH chắn gió, chắn cát bay ven biển.


Hình 3 3 Phân bố diện tích rừng chắn gió chắn cát và diện tích đất rừng 1

Hình 3.3. Phân bố diện tích rừng chắn gió, chắn cát và diện tích đất rừng vùng cát ven biển khu vực nghiên cứu

Các huyện có diện tích rừng chắn gió chắn cát phòng hộ ven biển có diện tích lớn, theo thứ tự giảm dần (điểm màu đỏ trên hình) như: Lệ Thủy (12.400 ha), Vĩnh Linh (5.821 ha), Hải Lăng (4.617 ha), Triệu Phong (3.470 ha), Gio Linh (2.519 ha), Quảng Ninh (1.554 ha)... Các huyện nằm càng sát đường màu xanh và trong vùng màu xám (Hình 3.3) có ý nghĩa đảm bảo về mặt diện tích rừng phòng hộ chắn gió chắn cát ven biển so với diện tích rừng và đất rừng vùng cát ven biển được giao quản lý. Ngược lại, những huyện không nằm trong vùng màu xám, chưa đảm bảo về diện tích rừng trong phòng hộ chắn gió chắn cát ven biển. Vì vậy, các huyện này cần sớm có qui hoạch, kế hoạch trồng rừng nhằm đảm bảo diện tích phòng hộ chắn gió chắn cát ven biển. Các huyện có diện tích rừng chắn gió chắn cát so với diện tích rừng và đất rừng được giao quản lý, chưa đảm bảo về mặt diện tích phòng hộ ven biển như: Hải Lăng, Gio Linh, Quảng Ninh, Quảng Trạch, Cẩm Xuyên, …



TT


Khu vực nghiên cứu

Trồng rừng mới (ha)

Trồng bổ sung, phục hồi rừng

(ha)

Chăm sóc rừng (ha)

Khoán bảo vệ rừng (ha)

1

Hà Tĩnh

-

-

-

-

2

Quảng Bình

575

960

2.159

21.736

3

Quảng Trị

376

-

-

-

4

Khu vực nghiên cứu

951

960

2.159

21.736

5

Vùng BTB

1.283

960

3.755

56.185

6

Tỷ lệ (%)

74,1

100,0

57,5

38,7

Bảng 3.11. Kết quả thực hiện nhiệm vụ bảo vệ và phát triển rừng chắn cát, chắn gió ven biển giai đoạn 2015 - 2020


Nguồn:(Bộ NN&PTNT, 2021) [19]

Việc chuyển đổi rừng và đất rừng qui hoạch cho lâm nghiệp vùng cát ven biển sang các mục đích sử dụng khác (công nghiệp, du lịch, khai thác vật liệu xây dựng, titan, sa khoáng, nuôi tôm trên cát, ...) là một trong những nguyên nhân chính gây mất rừng ven biển trong thời gian qua. Giai đoạn trước năm 1985, nhu cầu về phát triển kinh tế - xã hội địa phương (gỗ củi, đất ở, đất xây dựng, đất sản xuất nông lâm - ngư nghiệp...) đã làm cho nhiều diện tích các khu rừng tự nhiên trên đát, cát ven biển bị thu hẹp. Giai đoạn từ năm 1985 trở lại đây, vùng cát ven biển bắt đầu được chú ý đầu tư gây trồng rừng, với Phi lao là cây trồng chính. Hiện nay, có thêm nhiều loài cây được đưa vào trồng RPH vùng cát ven biển như Phi lao Trung Quốc (dòng 601, 701), các loài Keo (Acacia), đặc biệt là cây Keo lá liềm có khả năng thích nghi, sinh trưởng tốt trên đất cát cố định, bán cố định ven biển, và đất cát nội đồng bán ngập nếu được lên líp.

b) Đánh giá thực trạng các biện pháp kỹ thuật trồng rừng vùng cát ven biển

Kết quả điều tra, phỏng vấn về các biện pháp kỹ thuật đã áp dụng trong công tác trồng rừng vùng cát ven biển tại khu vực nghiên cứu cho thấy, các loài cây trồng rừng vùng cát ven biển chính bao gồm: Phi lao (giống địa phương, các dòng 601, 701 của Trung Quốc), Keo lá tràm là hai loài cây trồng rừng chính; Keo lá liềm mới được gây trồng tại khu vực nghiên cứu từ năm 2000 cho đến nay; một số loài Keo chịu hạn (A. difficilis, A. torulosa, A. tumida) mới được trồng thử nghiệm. Ngoài ra, một số loài cây trồng rừng khác cũng được gây trồng thử nghiệm như: Muồng đen, Xoan chịu hạn, Bạch đàn trắng, Điều, Keo lá bạc, Keo tai tượng, … đặc biệt là một số loài cây gỗ bản địa trồng thử nghiệm phục hồi rừng trên các rú cát như: Sở, Dẻ cát, Trâm bù, Mà ca.

Phần lớn diện tích rừng trồng vùng cát hàng năm trên địa bàn nghiên cứu phụ


thuộc vào đầu tư của các dự án trồng rừng như: Chương trình 327, 737, 661 và các tổ chức nước ngoài như: PAM, JICA, BASA, PACSA1, PACSA2, FMCR-WB4, … người dân tự phát trồng rừng chiếm diện tích rất nhỏ so với diện tích của các dự án đầu tư trên. Biện pháp kỹ thuật đều được áp dụng đầy đủ theo quy trình kỹ thuật của các Dự án trồng rừng, thể hiện ở một số điểm chính như sau:

- Điều kiện gây trồng: trồng rừng trên các dạng lập địa cồn cát, đụn cát, bãi cát trắng bán cố định; đất cát bán cố định ngập nước vào mùa mưa.

- Xử lý thực bì: phát dọn thực bì toàn diện, dọn sạch thực bì trước khi trồng rừng.

- Biện pháp làm đất: tại khu vực nghiên cứu áp dụng hai biện pháp làm đất chính:

+ Biện pháp làm đất bằng cơ giới: cày toàn diện bằng máy để lên líp kết hợp cuốc hố thủ công. Biện pháp kỹ thuật lên líp thường áp dụng ở những nơi đất bị ngập úng vào mùa mưa.

+ Biện pháp lầm đất thủ công: cuốc hố thủ công theo băng trồng rộng 20 m, kích thước hố 30x30x30 cm, băng chừa 10 m. Áp dụng dụng đối với những dạng lập địa ít bị ngập úng, đất cát bán cố định.

Bảng 3.12. Tổng hợp các biện pháp kỹ thuật đã áp dụng trong trồng rừng vùng cát ven biển khu vực nghiên cứu

Biện pháp kỹ thuật

đã áp dụng

Loài cây trồng rừng chính (Phi lao, Keo lá tràm, Keo lá liềm, …) và trồng thử nghiệm một số loài cây gỗ bản địa trên các rú cát như: Sở,

Dẻ cát, Trâm bù, Mà ca, …


Điều kiện gây trồng

Các dạng lập địa:

- Đất cát cố định bán ngập vào mùa mưa, thực bì cỏ rười và cỏ lông lợn;

- Cồn cát, đụn cát, bãi cát trắng bán cố định ven biển;

Xử lý thực bì

Phát dọn thực bì toàn diện, dọn sạch thực bì.


Biện pháp làm đất

- Biện pháp làm đất bằng cơ giới: cày toàn diện bằng máy để lên líp kết hợp cuốc hố thủ công.

- Kích thước líp:

+ Líp đôi (trồng 2 hàng/líp), líp cao 0,4 m, rộng 4,0 m, rãnh líp rộng 2,0 m. Cuốc hố 30 x 30 x 30 cm.

+ Líp đơn (trồng 1 hàng/líp), líp cao 0,4m, rộng 1,5m, rãnh líp rộng 1,5m. Cuốc hố 30 x 30 x 30 cm.

Xem tất cả 207 trang.

Ngày đăng: 10/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí