Tiêu Chuẩn Cơ Sở Viên Mesalamin Giải Phóng Tại Đại Tràng

Công đoạn bao: Công đoạn bao được thực hiện trên thiết bị bao tầng sôi. Như đã trình bày ở trên, có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quá trình bao pellet. Trong luận án quá trình bao pellet khi nâng cấp quy mô lên 2 kg pellet nhân / mẻ bao có hiệu suất bao cao hơn so với lúc bào chế lượng nhỏ ở quy mô nghiên cứu (240 g/mẻ) do thiết bị bao tầng sôi Qui Long của công ty Bidiphar phù hợp cho các mẻ bao lớn hơn.

Kết quả nghiên cứu cho thấy độ hòa tan, T10, độ đồng đều khối lượng viên khá đồng đều trong một lô và giữa các lô. Như vậy có thể bước đầu khẳng định quy trình sản xuất viên nang mesalamin giải phóng tại đại tràng bằng phương pháp đùn – tạo cầu và bao tầng sôi có đặc điểm thuận lợi cho sản xuất quy mô công nghiệp. Khi sản xuất quy mô lớn hơn, các thông số quy trình phải thay đổi phù hợp với thiết bị.

4.3. TIÊU CHUẨN CƠ SỞ VÀ ĐỘ ỔN ĐỊNH

4.3.1. Tiêu chuẩn cơ sở viên mesalamin giải phóng tại đại tràng

Do trong các dược điển chưa có chuyên luận về dạng thuốc giải phóng tại đại tràng và không có thuốc chứa mesalamin giải phóng tại đại tràng để đối chiếu nên các tiêu chuẩn đề xuất cho viên mesalamin đã bào chế căn cứ vào các tài liệu nghiên cứu và kết quả thực nghiệm. Dựa trên các nghiên cứu của luận án, tiêu chuẩn chất lượng cho pellet bao mesalamin giải phóng tại đại tràng gồm các chỉ tiêu: Hình thức, độ đồng đều khối lượng, định tính, độ hòa tan, định lượng. Các phương pháp có độ chính xác cao, dễ dàng áp dụng với điều kiện thực tế tại Việt Nam.

4.3.2. Độ ổn định pellet mesalamin giải phóng tại đại tràng

Qua kết quả nghiên cứu tiền công thức có thể nhận thấy mesalamin là hoạt chất phân hủy rất nhanh trong môi trường kiềm mạnh, chậm hơn trong dung dịch nước và ổn định trong môi trường acid mạnh. Ngoài ra, dược chất không bền trong môi trường ánh sáng UV, tuy nhiên, sự phân hủy dược chất dưới tác dụng của UV không nhanh như trong môi trường kiềm và có tác nhân oxi hóa. Các chất chống oxi hóa như natri metabisulfite và EDTA không giúp hạn chế ảnh hưởng của tác nhân oxi hóa, ngược lại acid ascorbic giúp dược chất ổn định hơn khi có mặt của H2O2 5 %. Do đó, để tránh phản ứng phân hủy xảy ra, cần áp dụng các biện pháp như: Không sử dụng các tá dược có tính kiềm mạnh; kiểm soát thời gian thực hiện ở các công đoạn có độ ẩm cao như trộn bột ướt, ủ bột, đùn-vo; kiểm soát độ ẩm pellet nhân và pellet

sau khi bao film. Ngoài ra, sản phẩm cuối cùng được đóng gói trong lọ thủy tinh nâu đóng kín để hạn chế sự khuếch tán độ ẩm từ bên ngoài môi trường vào thuốc và tránh ánh sáng tác động trực tiếp vào sản phẩm.

Đánh giá độ ổn định

Nghiên cứu độ ổn định của viên mesalamin giải phóng tại đại tràng với mục đích đánh giá sự thay đổi chất lượng của thuốc dưới tác động của các yếu tố môi trường (nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng) và các yếu tố thuộc về chế phẩm thuốc (tính chất lý hóa, dạng bào chế, mức độ kín và bản chất của bao gói trực tiếp), là cơ sở để dự đoán tuổi thọ của thuốc [24]. Nghiên cứu độ ổn định được tập trung vào các chỉ tiêu: hình thức, độ đồng đều khối lượng, định tính, định lượng và đặc biệt là độ hòa tan dược chất vì chỉ tiêu này liên quan trực tiếp đến hiệu quả điều trị của thuốc. Kết quả ban đầu cho thấy viên nghiên cứu đạt yêu cầu chất lượng đề ra sau thời gian 12 tháng bảo quản ở điều kiện thực và 6 tháng bảo quản ở điều kiện lão hóa cấp tốc. Để có kết luận chính xác về tuổi thọ của thuốc, cần tiếp tục theo dõi trong thời gian dài. Mặc dù bước đầu đã đánh giá được độ ổn định của sản phẩm nghiên cứu, tuy nhiên luận án vẫn còn hạn chế chưa đánh giá được tạp phân hủy trong quá trình bảo quản do những khó khăn về kinh phí thực hiện luận án (hóa chất, cột sắc ký). Ngoài ra, độ ổn định dài hạn của thuốc được theo dõi ở điều kiện phòng thí nghiệm do không có thiết bị tủ ổn nhiệt để giữ nhiệt độ 30oC, độ ẩm 75 %, vì vậy giá trị dự đoán độ ổn định bằng phần mềm minitab 17 mang tính tương đối. Để có kết luận chính xác về tuổi thọ của thuốc, cần tiếp tục theo dõi trong thời gian tiếp theo.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 299 trang tài liệu này.

4.4. ĐÁNH GIÁ IN VITRO IN VIVO

4.4.1. Đánh giá độ hòa tan in vitro

Nghiên cứu bào chế pellet mesalamin giải phóng tại đại tràng - 21

Đối với dạng thuốc uống giải phóng tại đại tràng, hiện nay chưa có sự thống nhất về điều kiện thử hòa tan giữa các nghiên cứu. Việc xây dựng điều kiện hòa tan phù hợp là rất cần thiết để phản ánh chính xác sự vận chuyển của thuốc giải phóng tại đại tràng trong đường tiêu hóa. Để xác định sự giải phóng thuốc trong đường tiêu hóa, luận án đã tiến hành thử hòa tan ở 2 điều kiện như mục 2.2.4.4. Vì polyme sử dụng trong nghiên cứu có độ tan phụ thuộc pH nên điều kiện pH ảnh hưởng lớn đến kết quả thử nghiệm in vitro. Dựa vào thực nghiệm, luận án đã lựa chọn mô hình in

vitro như điều kiện 2 (môi trường pH 1,2 trong 2 giờ; môi trường pH 7,4 trong 3 giờ tiếp theo và môi trường pH 6,8 trong các giờ còn lại) để tối ưu hóa công thức pellet mesalamin bao giải phóng tại đại tràng. Kết quả nghiên cứu cho thấy thuốc nghiên cứu đạt T10 hơn 4 giờ và T80 khoảng 9 giờ.

4.4.2. Đánh giá sự dịch chuyển thuốc in vivo trong đường tiêu hóa chó

Có nhiều phương pháp để xác định được vị trí giải phóng của dạng thuốc giải phóng tại đại tràng trong đường tiêu hóa như xạ hình gamma các chất đánh dấu phóng xạ như Tc-99m-diethylenetriaminepentaacetic acid (DTPA), Tc-99m-tin colloid, Tc- 99m-sulfur colloid và In-111-DTPA hoặc resin trao đổi ion; phương pháp hình ảnh cộng hưởng từ (MRI); phương pháp hình ảnh X-quang. Trong nghiên cứu của S. P. Sawarkar và cộng sự (2019), chất đánh dấu phóng xạ 99mTc-DTPA được cho vào trong viên nhân mesalamin, sau đó nhân thuốc được bao kiểm soát giải phóng tại đại tràng bằng gôm guar hoặc pectin và được thử nghiệm trên người tình nguyện để xác định vị trí thuốc trong đường tiêu hóa bằng xạ hình gamma. Phương pháp này cho kết quả tương đối chính xác và hình ảnh rõ nét, tuy nhiên khá tốn kém do phải sử dụng chất đánh dấu phóng xạ và phải được thực hiện trong cơ sở đáp ứng điều kiện chụp phóng xạ [84]. Gần đây, phương pháp MRI cũng được Sarah Sulaiman và cộng sự (2022) áp dụng để nghiên cứu sự di chuyển trong đường tiêu hóa người tình nguyện của viên nang làm từ HPMC được bao kiểm soát giải phóng tại đại tràng bằng MethocelTM K4M và Eudragit S100. Kết quả hình ảnh MRI khá rõ, xác định được vị trí thuốc trong đường tiêu hóa khi còn nguyên vẹn và khi đã bị ăn mòn giải phóng dịch bên trong. Phương pháp khá hiệu quả, tuy nhiên chi phí thực hiện khá lớn nên vẫn còn khó khăn khi thực hiện [88]. Trong một nghiên cứu khác, Veerpal và cộng sự (2020) sử dụng bari sulfat làm chất cản quang để ứng dụng phương pháp hình ảnh X-quang xác định vị trí và Tlag của thuốc [103]. Tương tự, luận án đã sử dụng bari sulfat làm chất cản quang trong nghiên cứu xác định sự di chuyển in vivo của pellet mesalamin giải phóng tại đại tràng trên mô hình chó thí nghiệm bằng phương pháp X-quang. Để hình ảnh X-quang được rõ nét hơn và có độ tin cậy cao hơn, luận án đã sử dụng thêm chất kích quang là dung dịch Xenetix 6 mg/ml chứa iobitridol có tác dụng cản quang trong hình ảnh X-quang. Phương pháp này cũng được Nguyen Thach

Tung và cộng sự (2020) sử dụng thành công để đánh giá di chuyển của viên berberin clorid trong đường tiêu hóa người tình nguyện [71]. Kết quả chụp X-quang trong luận án cho thấy pellet mesalamin bao film chứa chất cản quang hiện rõ ở các thời điểm đầu khi thuốc ở phần trên đường tiêu hóa và sau đó mờ dần ở các thời điểm sau khi thuốc ở vị trí đại tràng do màng bao bị ăn mòn, chất cản quang đi ra môi trường dịch tiêu hóa. So với phương pháp sử dụng đồng vị phóng xạ hoặc MRI thì phương pháp X-quang được sử dụng trong luận án cho hình không rõ nét bằng, do khi chụp thuốc dễ lẫn trong các tạp phẩm của đại tràng và một số thức ăn cho hình ảnh phát quang có kích thước khác nhau trên hình X-quang nên khó xác định được thời gian thuốc rã và giải phóng dược chất. Trong luận án, số lượng chó sử dụng trong nghiên cứu là 5 chó nên còn có hạn chế nhất định về ý nghĩa thống kê vì chưa thể kết luận sâu về Tlag và vị trí giải phóng của thuốc tại đại tràng, hình ảnh thu được có ý nghĩa sơ bộ khẳng định pellet mesalamin nghiên cứu hạn chế giải phóng ở đoạn trên đường tiêu hóa và giải phóng phần lớn khi pellet bao ở vị trí đại tràng.

4.4.3. Đánh giá sự hấp thu thuốc in vivo trên chó

Thiết kế nghiên cứu

Với hầu hết các dạng bào chế của mesalamin đang trong quá trình nghiên cứu, phát triển, nghiên cứu sự hấp thu thuốc in vivo thường được tiến hành thăm dò trên động vật thí nghiệm như chuột, chó và thỏ [48], [51], [102]. Ngoài ra, cũng có một số nghiên cứu được thực hiện trên người tình nguyện [18].

Số lượng động vật thí nghiệm

Động vật thí nghiệm thường được sử dụng trong nghiên cứu đánh giá sự hấp thu thuốc của các chế phẩm chứa mesalamin là chuột, thỏ và chó với số lượng thay đổi tùy theo mục đích nghiên cứu [48], [51], [102]. Trong các động vật này, chó được cho là mô hình động vật phù hợp nhất trong nghiên cứu đánh giá in vivo các chế phẩm đường uống nói chung và của mesalamin nói riêng (do có đường tiêu hóa tương đối giống người). Điều kiện nghiên cứu in vivo còn hạn chế, số lượng mẫu máu nhiều, tuy nhiên bước đầu cũng đã có được một số kết quả về khả năng hấp thu của pellet mesalamin bao giải phóng tại đại tràng để kiểm chứng cho kết quả in vitro và thăm dò khả năng hấp thu làm cơ sở đánh giá sinh khả dụng của thuốc nghiên cứu sau này.

Chất phân tích

Trong số các công trình nghiên cứu đánh giá in vivo được trích dẫn trong luận án, chỉ tập trung định lượng hoạt chất gốc mesalamin trong huyết tương. Do không đủ chất chuẩn của chất chuyển hóa chính N-acetyl-5-aminosalicylic acid của mesalamin (đắt và khó mua) nên chỉ định lượng mesalamin trong huyết tương bằng phương pháp LC-MS/MS.

Phương pháp định lượng mesalamin trong huyết tương

Mesalamin có đặc tính phân cực và lưỡng tính, do đó việc chiết xuất mesalamin từ huyết tương và phân tích sắc ký khá phức tạp. Nhiều phương pháp đã được sử dụng để định lượng mesalamin trong huyết tương như phương pháp sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC) với detector UV [21], HPLC với detector huỳnh quang

[26] và HPLC với detector điện hóa [75]. Tuy nhiên, hầu hết các phương pháp này có bước tạo dẫn xuất, do đó quá trình chuẩn bị mẫu khá phức tạp và tốn thời gian. Kết quả nghiên cứu trong luận án cho thấy, phương pháp sắc ký lỏng khối phổ có quy trình xử lý mẫu nhanh, đơn giản. Ngoài ra, phương pháp LC-MS/MS đã khắc phục được các hạn chế của các nghiên cứu định lượng mesalamin trong dịch sinh học bằng LC-MS/MS trước đây như nghiên cứu của Gu G-Z và cộng sự với yêu cầu thể tích mẫu lớn (≥ 100 µL) và nghiên cứu của Pastorini E và cộng sự có ảnh hưởng của nền mẫu ≥ 30 % [39], [76].

Phương pháp sắc ký lỏng kết hợp khối phổ định lượng mesalamin trong các mẫu huyết tương chó, sử dụng chuẩn nội diazepam đã được thẩm định theo các hướng dẫn thẩm định phương pháp định lượng thuốc trong dịch sinh học của US-FDA bao gồm các chỉ tiêu: độ đặc hiệu – chọn lọc, giới hạn định lượng, độ đúng, độ chính xác, đường chuẩn và khoảng tuyến tính, tỷ lệ thu hồi hoạt chất, ảnh hưởng của nền mẫu và độ ổn định của mesalamin trong huyết tương. Kết quả cho thấy phương pháp định lượng mesalamin trong huyết tương bằng LC-MS/MS có giá trị giới hạn định lượng dưới thấp 50 ng/mL, khoảng tuyến tính rộng từ 50 - 30000 ng/mL, độ đúng cao (85% đến 115%), độ lặp lại với giá trị CV% nhỏ (< 15%). Phương pháp phân tích có thể ứng dụng trong các nghiên cứu hấp thu và tương đương sinh học chế phẩm thuốc chứa mesalamin.

Nghiên cứu hấp thu mesalamin in vivo trên mô hình chó thí nghiệm

Nghiên cứu hấp thu in vivo của pellet mesalamin GPTĐT được tiến hành trên chó. Do không tìm được viên đối chứng dạng bào chế giải phóng tại đại tràng của hoạt chất mesalamin nên luận án đã đánh giá sự hấp thu dược chất trên cùng một cá thể chó lần lượt uống pellet mesalamin nhân và pellet mesalamin GPTĐT sau 1 tuần uống pellet nhân. Kết quả thử nghiệm hấp thu in vivo của luận án cho thấy thời gian đạt nồng độ cực đại của chó uống pellet nhân tương ứng với thời điểm pellet ở dạ dày hoặc ruột non, chứng tỏ pellet giải phóng hoàn toàn tại vị trí này. Ngược lại, thời gian nồng độ cực đại của chó uống pellet GPTĐT lớn hơn nhiều so với khi uống pellet nhân. Thời điểm này tương ứng với pellet ở vị trí đại tràng, chứng tỏ thuốc giải phóng hoàn toàn ở đại tràng chó. Ngoài ra, nồng độ tối đa của chó uống pellet nhân cao hơn rất nhiều nồng độ tối đa của chó uống pellet GPTĐT, chứng tỏ dược chất hấp thu tốt ở đoạn đầu đường tiêu hóa và hấp thu kém ở đại tràng. Nghiên cứu so sánh hấp thu mesalamin ở của hai dạng bào chế trên cho thấy pellet mesalamin giải phóng tại đại tràng hạn chế giải phóng ở đoạn đầu đường tiêu hóa nên chỉ một lượng nhỏ mesalamin được hấp thu vào máu sau 4 giờ uống thuốc, tuy nhiên giải phóng phần lớn mesalamin ở vị trí đại tràng. Phương pháp đánh giá hấp thu này cũng được Amandeep Singh và cộng sự (2021) áp dụng trên mô hình chuột thí nghiệm. Thử nghiệm hấp thu mesalamin in vivo trên chuột của tác giả cho thấy chuột uống pellet nhân có Tmax đạt 0,82 ± 0,19 giờ và Cmax đạt 3,15 ± 0,98 (mg/ml), trong khi chuột uống pellet giải phóng tại đại tràng có Tmax là 5,91 ± 0,77 giờ và Cmax là 1,06 ± 0,37 (mg/ml). Với mô hình nghiên cứu in vivo này, tác giả đã chứng minh được mục tiêu giải phóng thuốc của pellet mealamin giải phóng tại đại tràng [20]. Phương pháp đánh giá hấp thu mesalamin in vivo bằng cách so sánh dạng bào chế giải phóng tại đại tràng và dạng giải phóng nhanh cũng được Chintan Pamar và cộng sự (2018) thực hiện trên mô hình thỏ [27].

Mesalamin bị acetyl hóa nhanh chóng ở thành ruột và gan tạo thành chất chuyển hóa acid N-acetyl-5-aminosalicylic (Ac-5-ASA) [6]. Do đó, để chứng minh dược chất ít bị giải phóng ở đoạn trên đường tiêu hóa, một số nghiên cứu đã định lượng Ac-5-ASA trong huyết tương. Y. Karrout và cộng sự (2015) đã phân

tích nồng độ Ac-5-ASA trong huyết tương ở 3 nhóm chuột thí nghiệm uống mesalamin với liều 150 mg/kg/ngày. Nhóm 1 được uống pellet Pentasa, nhóm 2 uống pellet mesalamin bao bằng nutriose : EC và nhóm 3 uống pellet mesalamin bao bằng tinh bột đậu : EC. Kết quả nghiên cứu cho thấy nồng độ Ac-5-ASA trong huyết tương chuột uống pellet mesalamin bao bằng nutriose:EC và pellet mesalamin bao bằng tinh bột đậu : EC rất thấp so với chuột uống pellet Pentasa. Điều này cho thấy pellet bao giải phóng tại đại tràng hạn chế giải phóng hoạt chất ở đoạn trên đường tiêu hóa [109]. A. Foppoli và cộng sự (2019) cũng phân tích nồng độ Ac-5-ASA trong thử nghiệm in vivo trên người tình nguyện để chứng minh dạng bào chế nghiên cứu hạn chế giải phóng ở dạ dày và ruột non [12]. Ngoài ra, để đánh giá tác dụng kháng viêm tại chỗ của thuốc giải phóng tại đại tràng, một số nghiên cứu đã tiến hành gây viêm đường tiêu hóa ở động vật thí nghiệm và đánh giá khả năng giảm viêm của mesalamin tại đại tràng. Nghiên cứu của Y. Karrout và cộng sự (2015) đã thử nghiệm trên mô hình chuột bị gây viêm đại tràng bằng acid 2, 4, 6-trinitrobenzen sulfonic (TNBS). Chuột sau khi gây viêm sẽ được uống pellet giải phóng tại đại tràng và đánh giá sự hồi phục tổn thương vùng mô ở đại tràng [109].

Do hạn chế về điều kiện nghiên cứu (thời gian và kinh phí), do đó luận án đã lựa chọn phương pháp định lượng nồng độ mesalamin trong huyết tương chó kết hợp với hình ảnh X-quang để chứng minh khả năng hạn chế giải phóng mesalamin ở đoạn trên đường tiêu hóa và giải phóng phần lớn mesalamin ở đại tràng. Ngoài ra, số lượng chó thử nghiệm chưa nhiều (5 chó) nên còn hạn chế về mức ý nghĩa thống kê. Tuy nhiên, bước đầu cũng đã có được một số kết quả khả quan để chứng minh pellet mesalamin bao được nghiên cứu trong luận án giải phóng mesalamin đáp ứng mục tiêu của dạng bào chế giải phóng tại đại tràng

Dạng bào chế thuốc giải phóng tại đại tràng theo cơ chế phụ thuộc pH khó thương mại hóa trên thị trường do đặc điểm pH đường tiêu hóa người khác nhau ở mỗi cá thể và phụ thuộc nhiều yếu tố như tình trạng bệnh, thuốc sử dụng, thức ăn, …. Trên thị trường, sản phẩm Asacol® 400 mg đã được chứng minh giải phóng tại đại tràng trong các thử nghiệm độ hòa tan in vitro [69]. Thử nghiệm in vivo

trên người cũng cho thấy Asacol®400 mg trì hoãn giải phóng cho đến khi thuốc đến đoạn cuối hồi tràng và các đoạn đường tiêu hóa sau đó. Khoảng 28 % mesalamin trong viên Asacol®400 mg hấp thu sau khi uống, phần còn lại có tác dụng tại đại tràng và được thải ra theo phân.

Xem tất cả 299 trang.

Ngày đăng: 16/03/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí