nhẹ, đôi khi cong lưng rặn tỏ vẻ không yên tĩnh. Từ cơ quan sinh dục thải ra ngoài hỗn dịch, niêm dịch lẫn với dịch viêm, mủ…
Khi con vật nằm, dịch viêm thải ra ngoài càng nhiều hơn.Xung quanh âm môn, gốc đuôi, hai bên mông dính nhiều dịch viêm,có khi nó khô lại thành từng đám vẩy, màu trắng xám. Kiểm tra qua âm đạo, niêm dịch và dịch niêm thải ra nhiều. Cổ tử cung hơi mở và có mủ chảy qua cổ tử cung. Niêm mạc âm đạo bình thường.
* Hậu quả
Tử cung là một trong những bộ phận quan trọng nhất trong cơ quan sinh dục của lợn nái, nếu tử cung xảy ra bất kỳ quá trình bệnh lý nào thì đều ảnh hưởng rất lớn tới khả năng sinh sản của lợn mẹ và sự sinh trưởng, phát triển của lợn con.
Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002) [5]; Trần Thị Dân (2004) [3], khi lợn nái bị viêm tử cung sẽ dẫn tới một số hậu quả chính sau:
- Khi lợn bị viêm tử cung dễ dẫn đến sảy thai.
Lớp cơ trơn ở thành tử cung có đặc tính co thắt. Khi mang thai, sự co thắt của cơ tử cung giảm đi dưới tác dụng của progesterone, nhờ vậy phôi có thể bám chặt vào tử cung.
Khi tử cung bị viêm cấp tính do nhiễm trùng, tế bào lớp nội mạc tử cung tiết nhiều Prostaglandin F2α (PGF2α), PGF2α gây phân huỷ thể vàng ở buồng trứng bằng cách bám vào tế bào của thể vàng để làm chết tế bào và gây co mạch hoặc thoái hoá các mao quản ở thể vàng nên giảm lưu lượng máu đi đến thể vàng. Thể vàng bị phá huỷ, không tiết progesterone nữa, do đó hàm lượng Progesterone trong máu sẽ giảm làm cho tính trương lực co của cơ tử cung tăng, nên gia súc cái có chửa dễ bị sảy thai.
- Lợn mẹ bị viêm tử cung bào thai cũng phát triển kém hoặc thai chết lưu.
Có thể bạn quan tâm!
- Những Hiểu Biết Về Đặc Điểm Sinh Lý Tiết Sữa Của Lợn Nái Và Các Yếu Tố Ảnh Hưởng
- Những Hiểu Biết Về Quy Trình Nuôi Dưỡng Và Chăm Sóc Lợn Nái Đẻ Và Lợn Nái Nuôi Con
- Đặc Điểm Về Cơ Năng Điều Tiết Thân Nhiệt Của Lợn Con
- Tình Hình Chăn Nuôi Lợn Tại Trại Từ Năm Năm 2017 - 2018
- Thực hiện quy trình nuôi dưỡng chăm sóc và phòng trị bệnh cho đàn lợn nái hương nuôi con và lợn con theo mẹ nuôi tại trại lợn khu khởi nghiệp khoa Chăn nuôi Thú y - 8
- Thực hiện quy trình nuôi dưỡng chăm sóc và phòng trị bệnh cho đàn lợn nái hương nuôi con và lợn con theo mẹ nuôi tại trại lợn khu khởi nghiệp khoa Chăn nuôi Thú y - 9
Xem toàn bộ 76 trang tài liệu này.
Lớp nội mạc của tử cung có nhiệm vụ tiết các chất vào lòng tử cung để giúp phôi thai phát triển. Khi lớp nội mạc bị viêm cấp tính, lượng progesterone giảm nên khả năng tăng sinh và tiết dịch của niêm mạc tử cung giảm, do đó bào thai nhận được ít thậm chí không nhận được dinh dưỡng từ mẹ nên phát triển kém hoặc chết lưu.
- Sau khi sinh con lượng sữa giảm hoặc mất hẳn nên lợn con trong giai đoạn theo mẹ thường bị tiêu chảy.
Khi lợn nái bị nhiễm trùng tử cung, trong đường sinh dục thường có mặt của vi khuẩn E.coli, vi khuẩn này tiết ra nội độc tố làm ức chế sự phân tiết kích thích tố tạo sữa prolactin từ tuyến yên, do đó lợn nái ít hoặc mất hẳn sữa. Lượng sữa giảm, thành phần sữa cũng thay đổi nên lợn con thường bị tiêu chảy, còi cọc.
- Theo Trần Thị Dân (2004) [3] lợn nái bị viêm tử cung mãn tính sẽ không có khả năng động dục trở lại.
Nếu tử cung bị viêm mãn tính thì sự phân tiết PGF2α giảm, do đó thể vàng vẫn tồn tại, vẫn tiếp tục tiết progesterone.
Progesterone ức chế thuỳ trước tuyến yên tiết ra LH, do đó ức chế sự phát triển của noãn bao trong buồng trứng, nên lợn nái không thể động dục trở lại được và không thải trứng được.
- Tỷ lệ phối giống không đạt tăng lên ở đàn lợn nái viêm tử cung sau khi sinh đẻ. Hiện tượng viêm tử cung âm ỉ kéo dài từ lứa đẻ trước đến lứa đẻ sau là nguyên nhân làm giảm độ mắn đẻ. Mặt khác, viêm tử cung là một trong các nguyên nhân dẫn đến hội chứng MMA, từ đó làm cho tỷ lệ lợn con nuôi sống thấp. Đặc biệt, nếu viêm tử cung kèm theo viêm bàng quang thì còn ảnh hưởng tới hoạt động của buồng trứng.
* Chẩn đoán lâm sàng bệnh viêm tử cung
Xuất phát từ quan điểm kỳ tiền động đực, vì đây là thời gian cổ tử cung mở nên dịch viêm có thể chảy ra ngoài. Số lượng mủ không ổn định, từ vài ml
cho tới 200ml hoặc hơn nữa. Tính chất mủ cũng khác nhau, từ dạng dung dịch màu trắng loãng cho tới màu xám hoặc vàng, đặc như kem, có thể màu lâm sàng thì bệnh viêm tử cung thường biểu hiện vào lúc đẻ và thời máu cá. Người ta thấy rằng thời kì sau sinh đẻ hay xuất hiện viêm tử cung cấp tính, viêm tử cung mãn tính thường gặp trong thời kì cho sữa. Hiện tượng chảy mủ ở âm hộ có thể cho phép nghi viêm nội mạc tử cung.
Tuy nhiên, cần phải đánh giá chính xác tính chất của mủ, đôi khi có những mảnh trắng giống như mủ đọng lại ở âm hộ nhưng lại có thể là chất kết tinh của nước tiểu từ trong bàng quang chảy ra. Các chất đọng ở âm hộ lợn nái còn có thể là do viêm bàng quang có mủ gây ra.
Khi lợn nái mang thai, cổ tử cung sẽ đóng rất chặt vì vậy nếu có mủ chảy ra thì có thể là do viêm bàng quang. Nếu mủ chảy ở thời kỳ động đực thì có thể bị nhầm lẫn.
Như vậy, việc kiểm tra mủ chảy ra ở âm hộ chỉ có tính chất tương đối. Với một trại có nhiều biểu hiện mủ chảy ra ở âm hộ, ngoài việc kiểm tra mủ nên kết hợp xét nghiệm nước tiểu và kiểm tra cơ quan tiết niệu sinh dục. Mặt khác, nên kết hợp với đặc điểm sinh lý sinh dục của lợn nái để chẩn đoán cho chính xác.
Mỗi thể viêm khác nhau biểu hiện triệu chứng khác nhau và có mức độ ảnh hưởng khác nhau tới khả năng sinh sản của lợn nái. Để hạn chế tối thiểu hậu quả do viêm tử cung gây ra cần phải chẩn đoán chính xác mỗi thể viên từ đó đưa ra phác đồ điều trị tối ưu nhằm đạt được hiệu quả điều trị cao nhất, thời gian điều trị ngắn nhất, chi phí điều trị thấp nhất.
* Biện pháp phòng trị
- Phòng bệnh
Theo Nguyễn Tài Năng và cs (2016) [12], vệ sinh chuồng trại sạch sẽ một tuần trước khi lợn đẻ, rắc vôi bột hoặc nước vôi 20% sau đó rửa sạch
bằng nước thường, tắm cho lợn trước khi đẻ, vệ sinh sạch sẽ bộ phận sinh dục và bầu vú.
Theo Lê Văn Năm (2009) [11], trong khi đỡ đẻ bằng tay phải sát trùng kĩ bằng cồn, xoa trơn tay bằng vaselin hoặc dầu lạc.
Cho lợn nái chửa thường xuyên vận động, đảm bảo ăn uống đầy đủ, vệ sinh sạch sẽ.
Kiểm tra nghiêm ngặt dụng cụ dẫn tinh đúng quy định và không để nhiễm khuẩn.
Không sử dụng lợn đực bị nhiễm khuẩn đường sinh dục để nhảy trực tiếp hoặc lấy tinh.
- Điều trị
Tiêm thuốc hạ sốt analgin 2 - 3 ống/ngày
Tiêm kháng sinh: amoxicylin tiêm bắp hoặc tĩnh mạch 15kg thể trọng/ngày. Điều trị liên tục trong 3 - 4 ngày.
Tiêm thuốc trợ sức: vitamin và các loại thuốc bổ.
Theo Nguyễn Văn Điền (2015) [7], đối với lợn nái viêm nhẹ, điều trị bằng cách đặt viên thuốc kháng sinh oxytetracyclin vào âm đạo từ 5 - 7 ngày. Tiêm amoxi 15 % 3 lần liên tiếp, mỗi lần cách nhau 48 giờ. Đây là dạng viêm có kết quả điều trị khỏi bệnh cao.
Đối với lợn nái sau khi đẻ, sảy thai và viêm nặng: Thụt rửa tử cung bằng dung dịch iodine 10% pha 10 ml/2 lít nước, thụt rửa 2 lần/ngày trong 2 ngày đầu và thụt rửa 1 lần/ngày từ ngày thứ 3 đến ngày thứ 5 sau khi đẻ.
2.3. Tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước
2.3.1. Tổng quan các nghiên cứu trong nước
Ở Việt Nam một số nhà khoa học thú y đã có những nghiên cứu tổng kết về bệnh sinh sản trên đàn lợn nái. Bệnh sinh sản có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất sinh sản của lợn nái, nó không chỉ làm giảm sức sinh sản của lợn
nái mà còn có thể làm cho nái mất khả năng sinh sản, chậm sinh hay làm giảm khả năng sống sót của lợn con.
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2002) [9]: Bệnh viêm tử cung do vi khuẩn Streptococcus và Colibacilus nhiễm qua cuống rốn của lợn con sang lợn mẹ do đẻ khó, sát nhau, sảy thai hay qua dụng cụ thụ tinh nhân tạo cứng gây xây xát tạo các ổ viêm nhiễm trong tử cung, âm đạo.
Theo tác giả Nguyễn Xuân Bình (2000) [2], cho biết: Ở những nái bị viêm tử cung thường biểu hiện sốt theo quy luật sáng chiều (sáng sốt nhẹ, chiều sốt nặng).
Theo Phạm Hữu Doanh và cs ( 2003) [19], cho biết: Trước khi đẻ lau, xoa vú và tắm cho nái. Cho con đẻ đầu tiên bú ngay sau 1 giờ đẻ, cắt răng nanh lợn con. Chườm nước đá vào bầu vú để giảm sưng, giảm sốt. Tiêm kháng sinh: penicillin 1,5 - 2 triệu đơn vị với 10ml nước cất tiêm quanh vú. Nếu nhiều vú bị viêm thì pha loãng liều thuốc trên với 20 ml nước cất, tiêm xung quanh các vú viêm. Tiêm trong 3 ngày liên tục.
Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002) [5] cho biết: Viêm tử cung là một quá bệnh lý thường xảy ra ở gia súc cái sinh sản sau đẻ. Quá trình viêm hủy các tế bào tổ chức của các lớp hay các tầng tử cung gây rối loạn sinh sản ở gia súc cái làm ảnh hưởng lớn, thậm chí làm mất khả năng sinh sản ở gia súc cái.
Trong quá trình mang thai lợn ăn nhiều chất dinh dưỡng, ít vận động hoặc bị nhiễm một số bệnh truyền nhiễm như: Bệnh xoắn khuẩn (Leptospirosis), bệnh sảy thai truyền nhiễm (Brucellosis) và một số bệnh truyền nhiễm khác làm cơ thể lợn nái yếu dần dẫn đến lợn sảy thai, đẻ non, thai chết lưu từ đó dẫn đến viêm tử cung (Nguyễn Đức Lưu và cs (2004) [20].
Nguyên nhân chính dẫn đến bệnh viêm tử cung của nái là do: Thiếu về dinh dưỡng, chăm sóc, quản lý, vệ sinh, tiểu khí hậu chuồng nuôi, tuổi, lứa đẻ, tình trạng sức khỏe, kích dục tố, nhiễm trùng sau khi sinh. Từ những yếu
tố đó ta có thể đề ra phương pháp phòng bệnh viêm tử cung. Do nhiễm vi khuẩn Staphylococcus, Streptococcus vì các nguyên nhân như lợn con có răng nanh làm xây xát vú mẹ tạo điều kiện vi trùng xâm nhập. Lợn nái nhiều sữa con bú không hết làm sữa đọng nhiều tạo môi trường cho vi trùng sinh sản gây viêm vú. Lợn nái cho con bú một hàng vú, hàng còn lại căng sữa quá nên viêm.
Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002) [5], bệnh viêm đường sinh dục ở lợn chiếm tỷ lệ cao từ 30 - 50%, trong đó cơ quan ngoài chiếm 20%, còn lại 80% là viêm tử cung.
2.3.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Chăn nuôi lợn là một nghề trong ngành chăn nuôi ở nhiều nước trên thế giới chiếm với tỷ trọng khá cao. Vì vậy, các nước không ngừng đầu tư áp dụng những biện pháp khoa học kĩ thuật vào cải tạo chất lượng đàn giống và để hạn chế các dịch bệnh. Trong đó, vấn đề rất quan trọng trong các trang trại lợn nái là hạn chế bệnh sinh sản bởi có như vậy chất lượng đàn giống mới đạt kết quả tốt nhất.
Khi nghiên cứu về mô học và vi khuẩn học từ mẫu mô bị viêm vú cho thấy, vi khuẩn chính gây bệnh viêm vú là Staphylococcus spp. và Arcanobacterium pynogenes (Christensen và cs, 2007 [21]).
Nhiều tác giả cho biết bệnh viêm tử cung và viêm vú thường kế phát gây mất sữa, bệnh này hiện nay được gọi với nhiều tên gọi khác nhau nhưng phổ biến nhất là hội chứng mất sữa (MMA). Kemper và Gerhets (2009) [25], vi khuẩn phân lập được trong các mẫu sữa của lợn mắc bệnh viêm vú là: E. coli 38,9%; Staphylococcus spp. 14,8%; Enterococcus spp. 33,3%; Klebsiella
spp. 3,7%.
Theo Muirhead và Alexander (2010) [27] thì nguyên nhân gây viêm một hay nhiều vú ở lợn có thể do kế phát từ bệnh khác hoặc do nhiều loại vi khuẩn, xảy ra lác đác ở từng cá thể hoặc cả đàn. Bệnh thường xuất hiện tập
trung từ khi lợn đẻ đến 12 giờ sau đó, vi khuẩn xâm nhập vào một hay nhiều bầu vú thông qua núm vú do bị trầy xước (do nền chuồng hoặc do trong khi bú răng của lợn con sắc cọ vào). Nhóm vi khuẩn gây viêm vú gồm: Coliforms, Klebsiella, Staphylococcus, Streptococcus, Miscellaneous. Trong đó, vi khuẩn Staphylococcus và Streptococcus chỉ gây viêm từng vú, Klebsiella spp. gây viêm vú cấp tính và nhóm vi khuẩn E. coli với nhiều type khác nhau đã được phân lập ở hầu hết các trường hợp viêm vú, độc tố của E. coli sinh ra là nguyên nhân gây viêm vú, mất sữa.
Herber L và cs (2010) [23] đã dùng dimertridazol 1% cho lợn ăn trước khi đẻ 3 ngày và sau khi đẻ 4 ngày nhằm đánh giá sự ảnh hưởng đến bệnh viêm tử cung và viêm vú, đồng thời cho ăn trong thời gian cho con bú. Kết quả cho thấy mức tăng trọng của lợn con vào 30 ngày tuổi ở lô dùng thuốc cao hơn (223g/ngày) so với lô không dùng thuốc (208g/ngày), tỷ lệ chết ở lô thí nghiệm (9,3%) thấp hơn lô đối chứng (11,69%).
Theo Shrestha A (2012) [28], khi lợn nái mắc hội chứng viêm tử cung, viêm vú và mất sữa sẽ gây chết khoảng 2% lợn nái nhưng tỷ lệ chết ở lợn con lên tới 80% do đói, tiêu chảy,… Nguyên nhân do:
(1) Do chuồng trại: nền chuồng không bằng phẳng, chuồng trại chật trội, nhiệt độ môi trường cao, bầu vú lợn quá nóng do đặt đèn sưởi không thích hợp.
(2) Do dinh dưỡng: trong thời gian mang thai cho lợn nái ăn quá nhiều, nái quá béo, thay đổi thức ăn đột ngột, hàm lượng VTM E và canxi trong khẩu phần ăn thấp, thiếu xơ và nước uống.
(3) Do chăm sóc và quản lý: trong thời gian mang thai nái ít đc vận động, lợn nái không được vệ sinh, vô trùng trước khi đẻ, không được quan tâm khi đẻ, thời gian đẻ kéo dài, thao tác can thiệp khi đẻ khó không đúng kỹ thuật.
(4) Do bản thân lợn nái: đẻ nhiều con, dạ con lớn và nhão.
Khi tiến hành phân lập vi khuẩn từ 1026 mẫu sữa của lợn nái bị mắc bệnh viêm vú và 972 mẫu sữa từ lợn nái khỏe tại Berlim và Munich kết quả cho thấy, có đến 78% mẫu sữa từ bệnh viêm vú có vi khuẩn E. coli và 70,4% từ sữa cửa lợn khỏe, điều này cho thấy trong sữa luôn thấy vi khuẩn E. coli có trong sữa lợn (Kempes N và cs (2013) [26]).