Đặc Điểm, Vai Trò Của Pháp Luật Về Kiểm Soát Hành Vi Lạm Dụng Của Doanh Nghiệp Có Vị Trí Thống Lĩnh Thị Trường


1.3. Đặc điểm, vai trò của pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường

1.3.1. Đặc điểm

Mặc dù chính sách cạnh tranh và kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh của các quốc gia là không giống nhau do những yếu tố đặc thù về chính trị, văn hóa và truyền thống chi phối. Song, về cơ bản pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường có những đặc điểm như sau:

Thứ nhất, trong kinh tế thị trường, người ta ghi nhận nguyên tắc “tự do thỏa thuận, tự do kinh doanh” như là nguyên tắc bản lề khi xây dựng pháp luật kinh doanh cũng như là tiêu chí để đánh giá môi trường cạnh tranh có hoàn hảo hay không. Tuy nhiên, các quyền này không được diễn ra một cách tự ý, tự phát mà được luật pháp điều chỉnh hợp lý. Chính vì vậy, pháp luật nói chung và pháp luật cạnh tranh nói riêng khi xây dựng các quy định về kiểm soát hành vi thống lĩnh thị trường thị trường đều nhằm mục đích tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, cân bằng lợi ích của các chủ thể trên thị trường và thúc đẩy sự phát triển của kinh tế xã hội quốc gia. Nó được coi là công cụ quản lý của nhà nước để duy trì quyền tự do cạnh tranh kinh doanh lành mạnh bằng cách hạn chế các đặc quyền kinh tế của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường.

Thứ hai, sự điều tiết của pháp luật khi tác động đến các quan hệ cạnh tranh đều phải được căn cứ trên bản chất của hành vi và tôn trọng tính quy luật khách quan. Do đó, pháp luật kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường chỉ can thiệp vào những nơi, những quan hệ, những hành vi không đảm bảo sự cạnh tranh mang tính hiệu quả (những hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường làm triệt tiêu hoặc hạn chế cạnh tranh). Nói cách khác, nhà làm luật chỉ hướng đến cấm đoán hành vi, vì tự thân vị trí thống lĩnh thị trường không tạo ra vi phạm, không tạo ra những hệ quả xấu ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh của thị trường. Khác với pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế có nhiệm vụ ngăn chặn khả năng hình thành các thế lực có quyền


lực, có quyền lực thị trường không hình thành thông qua tích tụ tư bản và cạnh tranh lành mạnh.

Thứ ba, xét về mức độ phức tạp và nguy hại cho thị trường thì hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường mà đỉnh cao là lạm dụng vị trí độc quyền cao hơn rất nhiều so với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Sở dĩ như vậy, khi đạt được vị trí thống lĩnh thị trường, các doanh nghiệp mong muốn và có khả năng thực hiện các hành vi tiêu diệt quy luật cạnh tranh, thao túng thị trường liên quan mà mình hoạt động dẫn đến phá vỡ cấu trúc và tương quan của thị trường. Vì lẽ đó, cho nên thái độ của nhà nước và cơ quan quản lý cạnh tranh trong lĩnh vực pháp luật này cũng nghiêm khắc và quyết liệt hơn. Các biện pháp hành chính, kinh tế, hình sự nghiêm khắc được áp dụng đối với các hành vi lạm dụng cũng như những chủ thể lãnh đạo, quản lý công ty đó. Các chế tài có thể được áp dụng tùy thuộc vào mức độ, phạm vi và hậu quả cụ thể của hành vi như phạt tiền (chế tài kinh tế); buộc cơ cấu lại doanh nghiệp, loại bỏ những điều khoản vi phạm ra khỏi giao dịch, loại bỏ các biện pháp ngăn chặn các doanh nghiệp ra nhập thị trường… (chế tài hành chính); phạt tù (chế tài hình sự).

Thứ tư, cũng bắt nguồn từ hậu quả mà hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường đem lại cho thị trường nên cơ chế kiểm soát trong lĩnh vực này được thực hiện thường xuyên và chặt chẽ hơn. Trách nhiệm kiểm soát và xử lý các hành vi vi phạm trước hết sẽ thuộc về các cơ quan có thẩm quyền quản lý cạnh tranh mà không cần thiết phải có sự tố cáo hay khiếu kiện từ phía đối thủ cạnh tranh, người tiêu dùng của doanh nghiệp bị kiểm soát hay từ phía người dân. Hơn nữa, để bảo đảm cơ chế kiểm soát được thực thi và có ý nghĩa trong đời sống, pháp luật chống lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường còn quy định chi tiết cách thức tổ chức hoạt động của cơ quan có thẩm quyền; trình tự và thủ tục thi hành pháp luật; thủ tục và thẩm quyền khiếu kiện, khiếu nại; thẩm quyền tài phán và áp dụng các chế tài.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.

Thứ năm, pháp luật cạnh tranh trên thế giới thông thường phân chia thành hai lĩnh vực: pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh và pháp luật chống hạn chế


Kiểm soát hành vi lạm dụng của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường theo pháp luật - 4

cạnh tranh. Cả hai lĩnh vực này đều có nhiệm vụ bảo vệ cho môi trường cạnh tranh được lành mạnh, các hoạt động kinh doanh được diễn ra bình thường và ổn định. Trong đó, pháp luật chống hạn chế cạnh tranh mặc dù được ra đời sau nhưng đóng vai trò quan trọng hơn. Bởi nếu không có các quy định pháp luật trong lĩnh vực này các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, các hành vi lạm dụng quyền lực thị trường, các hành vi tập trung kinh tế sẽ triệt tiêu cạnh tranh, phá vỡ cấu trúc và tương quan thị trường. Khi đó, sẽ không còn môi trường cạnh tranh, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh cũng không có cơ sở để phát triển và sự xuất hiện của pháp luật chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh là không cần thiết. Mặt khác, hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường là bước cao hơn của cạnh tranh không lành mạnh. Hành vi này không chỉ gây nguy hiểm và để lại hậu quả cho các đối thủ cạnh tranh, những người tiêu dùng của mình mà còn làm ảnh hưởng đến toàn bộ những nhà sản xuất, người tiêu dùng khác và hơn hết là toàn xã hội. Vì lẽ đó cho nên, pháp luật chống hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường là bước phát triển cao hơn của pháp luật chống hạn chế cạnh tranh và là sự tiếp nối cho pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh.

Bên cạnh sự quan hệ mật thiết với pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh, pháp luật chống hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường cũng có mối quan hệ chặt chẽ với các ngành luật khác như Luật Hiến pháp, Luật Hành chính, Luật doanh nghiệp, Luật Thương mại, Luật Hình sự, Luật Dân sự… trong việc nhận dạng và áp dụng các chế tài phù hợp với từng hành vi vi phạm thuộc các lĩnh vực khác nhau.


1.3.2. Vai trò

Các hành vi lạm dụng của các doanh nghiệp có quyền lực thị trường nếu không được giới hạn và ngăn chặn sẽ để tại tác hại vô cùng to lớn đến môi trường cạnh tranh và cấu trúc thị trường. Do đó, có thể nói, sự ra đời của pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường đã có nhiều vai trò to lớn trong pháp


luật kinh doanh nói riêng và việc xây dựng nền kinh tế thị trường còn non yếu của Việt Nam nói chung:

Thứ nhất, góp phần duy trì tương quan thị trường trong môi trường cạnh tranh lành mạnh. Giới hạn các quyền và lợi ích của các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường nhằm tránh hành vi lạm dụng. Đồng thời, điều hòa lợi ích giữa các chủ thể kinh doanh trên thị trường với lợi ích chung của toàn xã hội.

Thứ hai, khuyến khích các doanh nghiệp tăng tích tụ tư bản, đạt được vị trí thống lĩnh thị trường thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh lành mạnh. Thực hiện các biện pháp ngăn chặn các hậu quả tiêu cực do hành vi lạm dụng quyền lực thị trường gây ra. Để từ đó góp phần bảo đảm sự ổn định và phát triển của nền kinh tế thị trường.

Thứ ba, thúc đẩy sự phát triển của nguyên tắc tự do kinh doanh nhưng vẫn đảm bảo có sự quản lý và điều tiết của nhà nước. Đóng góp cho việc xây dựng khung hành lang pháp lý chống hạn chế cạnh tranh nói riêng và pháp luật kinh doanh nói riêng.

Thứ tư, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các đối thủ cạnh tranh lành mạnh nhưng yếu thế của các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường. Tăng cường sức mạnh tự bảo vệ của người tiêu dùng trước những hành vi lạm dụng của các doanh nghiệp này.

Thứ năm, kể từ khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO cũng đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp của chúng ta bắt đầu hội nhập sâu vào thị trường chung quốc tế. Môi trường này đòi hỏi các doanh nghiệp trong quá trình cạnh tranh phải tuân thủ những nguyên tắc đã được các quốc gia thành viên khác thừa nhận, nhất là tôn trọng quyền tự do kinh doanh của các chủ thể khác. Điều này vừa là cơ hội cho các doanh nghiệp có sức mạnh thị trường phát triển, nhưng cũng là thách thức đối với các doanh nghiệp nhỏ trong guồng máy cạnh trạnh khốc liệt. Vì vậy, pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường không chỉ giúp Việt Nam nhanh chóng mở rộng thị trường và đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế mà còn giúp bảo vệ chính nền


kinh tế thị trường còn non yếu của mình trước sức mạnh của các doanh nghiệp có tiềm lực thị trường trên thế giới.

Với những vai trò lớn lao đã được phân tích ở trên, pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường thực sự trở thành công cụ hữu hiệu nhất trong điều tiết chính sách cạnh tranh của nhà nước. Đồng thời, đóng góp một phần quan trọng không thể thiếu trong quản lý môi trường kinh doanh lành mạnh và nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế.


1.4. Pháp luật Việt Nam và kinh nghiệm quốc tế trong việc kiểm soát hành vi lạm dụng của các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường‌

1.4.1. Pháp luật Việt Nam về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường

Có thể nói sẽ là phiến diện nếu như kiểm soát hành vi lạm dụng của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường chỉ được điều chỉnh trong pháp luật cạnh tranh. Bởi, hành vi lạm dụng được diễn ra ở nhiều góc độ, nhiều phạm vi thuộc các lĩnh vực khác nhau. Hơn nữa, bản thân Luật cạnh tranh không thể trở thành bộ luật tích hợp nhiều lĩnh vực riêng lẻ để điều tiết tất cả mọi khía cạnh của hoạt động kinh doanh. Điều đó sẽ làm cho Luật cạnh tranh trở nên cồng kềnh nhưng vẫn nhiều thiếu sót. Do đó, việc điều chỉnh vấn đề này cần thiết phải được quy định ở những pháp luật chuyên ngành. Khi đó sẽ bảo đảm cho pháp luật cạnh tranh giữa vai trò định hướng chỉ đạo, pháp luật chuyên ngành bổ sung và củng cố nhưng đặc thù của từng lĩnh vực, cũng như sự tác động qua lại giữa luật chung và luật riêng, góp phần hoàn thiện Pháp luật Việt Nam về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường.

Luật cạnh tranh

Với các quy phạm mang tính bắt buộc và được bảo đảm thực hiện bởi nhà nước, Luật cạnh tranh được coi là công cụ hữu hiệu của nhà nước trong lĩnh vực quản lý cạnh


tranh và điều tiết thị trường. Do đó, pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường trước hết được điều chỉnh trong Luật cạnh tranh 2004.

Về cách nhận diện một hoặc một nhóm các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, Luật cạnh tranh 2004 không xây dựng khái niệm mà xác định thông qua thị phần của chủ thể trên thị trường liên quan hoặc xác định chủ thể đó có khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể hay không. Cách xác định cụ thể được quy định tại Điều 11 Luật cạnh tranh 2004 và từ Điều 4 đến Điều 13 Nghị định số 116/2005/NĐ- CP ngày 15/09/2005 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật cạnh tranh (gọi tắt là “Nghị định số 116/2005/NĐ-CP”).

Có được vị trí thống lĩnh thị trường là điều không chỉ doanh nghiệp luôn hướng tới mà còn được các nhà quản lý kinh tế vĩ mô khuyến khích phát triển. Bởi có nhiều doanh nghiệp đạt vị trí thống lĩnh thị trường, chứng tỏ nền kinh tế của quốc gia đó rất phát triển. Tuy nhiên, nếu chủ thể nào vì lợi ích của mình, thực hiện hành vi lạm dụng vị thế của mình gây ảnh hưởng thị trường, xâm phạm tới quyền và lợi ích các chủ thể khác thì hành vi đó cần phải cấm thực hiện. Tại Điều 13 Luật cạnh tranh 2004 và Điều 27 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP, các nhà lập pháp đã liệt kê và minh thị rõ sáu nhóm hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường bị cấm.

Điều đặc biệt Luật cạnh tranh không chỉ kiểm soát đối với các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường có hành vi lạm dụng mà các nhà lập pháp còn nhận thấy cần kiểm soát cả doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực độc quyền nhà nước, doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích [47, Điều 15]. Các doanh nghiệp này có vị trí thống lĩnh thị trường không qua quá trình cạnh tranh mà hình thành thông qua các quyết định hành chính nhà nước. Vì vậy, không có gì là mâu thuẫn nếu coi các chủ thể đó cũng có nguy cơ thực hiện các hành vi lạm dụng vị trí của mình và cần thiết phải được kiểm soát.

Theo pháp luật cạnh tranh của Việt Nam, hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường rất nguy hiểm và để lại hậu quả lớn cho xã hội, do đó không có quy định trường


hợp miễn trừ. Các trường hợp vi phạm sẽ được áp dụng chế tài được quy định tại Nghị định số 120/2005/NĐ-CP ngày 30/09/2005 của Chính phủ quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh (gọi tắt là “Nghị định số 120/2005/NĐ-CP”).

Vai trò chủ động trong việc giám sát và xử lý các trường hợp lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh được Luật cạnh tranh trao cho Cục quản lý cạnh tranh và Hội đồng quản lý cạnh tranh. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu của hai cơ quan quản lý cạnh tranh này được quy định cụ thể tại Nghị định số 05/2006/NĐ-CP ngày 09/01/2006 của Chính phủ về việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Hội đồng cạnh tranh (gọi tắt là “Nghị định số 05/2006/NĐ-CP”) và Nghị định số 06/2006/NĐ-CP ngày 09/01/2006 của Chính phủ về quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục quản lý cạnh tranh (gọi tắt là “Nghị định số 06/2006/NĐ-CP”).

Pháp lệnh giá

Pháp lệnh giá ra đời với ý nghĩa to lớn " Góp phần phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình ổn giá, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh, của người tiêu dùng và lợi ích của Nhà nước” [58, Lời mở đầu]. Diễn giải một cách cụ thể thì Pháp lệnh giá là công cụ hữu hình để Nhà nước điều tiết, quản lý và phân cấp vĩ mô trong lĩnh vực giá, mà đối tượng tác động trực tiếp của nó là xác định nguyên nhân và kiểm soát sự biến động của giá, quản lý được các yếu tố cấu thành lên giá, mức chênh lệnh giá cả nội và ngoại địa, vấn đề ngăn chặn các hành vi lũng đoạn thị trường làm ảnh hưởng đến nền kinh tế quốc dân... Về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, tại các Điều 11 và Điều 12 Pháp lệnh giá 2002 đã ghi nhận về hiệp thương giá giá giữa bên mua, bên bán khi không thống nhất được giá ký hợp đồng đối với hàng hoá, dịch vụ quan trọng có tính chất độc quyền mua, độc quyền bán không thuộc phạm vi định giá của Nhà nước; các điều từ Điều 19 đến Điều 21 của Pháp lệnh quy định cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải kiểm soát độc quyên khi phát hiện có dấu hiệu liên kết độc


quyền về giá, việc hình thành giá độc quyền; hay các quy định về chống bán phá giá như các hành vi được coi là bán phá giá, các hành vi bị cấm, khiếu nại tố cáo và điều tra xử lý bán phá giá.

Các quy định về giá có tác động rất lớn đến bình ổn thị trường, bảo đảm phát triển kinh tế vĩ mô. Nếu các quy định này chỉ dừng ở Pháp lệnh thì chưa bảo đảm tính quyền lực của quy phạm. Chính vì lẽ đó, hiện nay, Văn phòng Chính Phủ đang phối hợp với Bộ Tài chính tiến hành tổ chức các hội thảo góp ý hoàn thiện dự thảo Luật giá. Về cơ, dự thảo vẫn giữ các nội dung như trong Pháp lệnh, một số vấn đề có sự sửa đổi trong đó có quy định về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường như: (i) về vấn đề kiểm soát thị trường được cơ cấu lại theo khung các quy định về Nhà nước kiểm soát giá độc quyền; đối tượng kiểm soát giá độc quyền; các biện pháp kiểm soát giá độc quyền; quyền và trách nhiệm của cơ quan thẩm quyền quản lý nhà nước về giá trong việc kiểm soát giá độc quyền và quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh khi nhận được yêu cầu kiểm soát giá độc quyền [59, Điều 26-30]; (ii) Bỏ các quy định về chống bán phá giá.

Luật chứng khoán

Thị trường chứng khoán và các hoạt động trên thị trường chứng khoán chính thức được ghi nhận trong luật năm 2006. Môi trường kinh doanh này được đánh giá là nhiều tiềm năng thu hút được các nhà đầu tư bởi lợi nhuận cao, nhưng cũng đầy rủi ro bởi nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố mà chủ yếu của nó là sự minh bạch của thông tin và sự tiếp cận thông tin của nhà đầu tư. Với mong muốn lợi nhuận cao nhất sẽ có không ít các chủ thể có thế mạnh sử dụng các biện pháp trong đó có thông tin để thao túng thị trường, hạn chế cạnh tranh, độc quyền thị trường. "Thông đồng để thực hiện việc mua bán chứng khoán nhằm tạo cung, cầu giả tạo; Giao dịch chứng khoán bằng hình thức cấu kết, lôi kéo người khác liên tục mua, bán để thao túng giá chứng khoán; kết hợp hoặc sử dụng các phương pháp giao dịch khác để thao túng giá chứng khoán" [48, Điều 9] hoặc các giao dịch của cổ đông lớn của công ty đại chúng làm thay đổi số

Xem tất cả 120 trang.

Ngày đăng: 03/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí