Xu Hướng “Hiện Đại Hóa” Triệt Để


“Đổi mới tư duy tiểu thuyết”: đổi mới tư duy là điều cần kíp để có được những tiểu thuyết có giá trị thực sự trong bối cảnh văn hoá hiện nay.

Sự đổi mới văn học phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan: khách quan là môi trường xã hội, thị hiếu độc giả; chủ quan là sự thay đổi của thế hệ nhà văn sau Đổi mới, bên cạnh các nhà văn lão thành, các nhà văn trưởng thành qua hai cuộc kháng chiến, đã xuất hiện thế hệ nhà văn hậu chiến, nhà văn thời Đổi mới. Sự thay đổi này khiến cho trong văn học xuất hiện hai xu hướng tìm tòi, sáng tạo tiểu thuyết. Thứ nhất là xu hướng “hiện đại hoá” triệt để và thứ hai là xu hướng đổi mới dựa trên lối viết truyền thống.

1.1.1. Xu hướng “hiện đại hóa” triệt để

Đổi mới không chỉ là đòi hỏi của đời sống văn học, của độc giả mà còn mục đích sáng tạo các nhà văn. Các nhà văn luôn trăn trở phải viết như thế nào để tự đổi mới chính mình và khác với những nhà văn khác. Vì thế xu hướng “hiện đại hoá triệt để” chính là xu hướng mà người viết tiểu thuyết mong muốn vượt qua sự “tồn dư ngoan cố của lối viết cũ”( Roland Barthes).

Sau thời kỳ Đổi mới, người ta đã quan niệm tiểu thuyết truyền thống (kết cấu tuyến tính) đã xưa rồi, không còn phù hợp với cuộc sống hiện đại. Các nhà văn, nhất là những cây bút trẻ đã thể nghiệm những kỹ thuật tự sự mới nhằm cách tân thể loại tiểu thuyết, đưa tiểu thuyết Việt Nam hoà nhập với tiểu thuyết hiện đại thế giới. Những cách tân, đổi mới tiểu thuyết theo xu hướng “hiện đại hoá triệt để” dựa trên sự đổi mới quan niệm tiểu thuyết, vận dụng những kỹ thuật tự sự hiện đại phương Tây, chủ yếu về lối viết và những thủ pháp nghệ thuật của văn học hiện sinh, văn học phi lý….Tuy nhiên không đơn thuần là việc sao chép máy móc, các cây bút tiểu thuyết Việt Nam đương đại đã tiếp thu, học tập có chọn lọc. Những cách tân tiểu thuyết Việt Nam theo xu hướng “hiện đại hoá” thể hiện ở những khía cạnh:


Trước hết đó là đổi mới quan niệm về tiểu thuyết theo tinh thần dân chủ, các nhà tiểu thuyết thoả sức với những đề tài của cuộc sống bởi tiểu thuyết lúc này đã được giải phóng khỏi nhiệm vụ phản ánh hiện thực một cách chính xác, đầy đủ. Sự phản ánh hiện thực không còn là cái nhìn đơn giản, xuôi chiều như thời kỳ trước nữa mà được nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau. Mọi ngõ ngách về đời sống con người đều được đào xới, mọi góc khuất trong tâm hồn con người đều được khai thác một cách triệt để.

Về hình thức, chúng ta có thể nhận diện những tiểu thuyết viết theo xu hướng “hiện đại hoá” triệt để ở một số dấu hiệu sau:

- Về dung lượng: thường ngắn.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 118 trang tài liệu này.

- Cốt truyện: tiểu thuyết được viết một cách tự nhiên, không bị ràng buộc bởi thi pháp truyền thống, có xu hướng mờ nhạt về tính “chuyện”, cốt truyện có sự “phân rã”, lỏng lẻo, cấu trúc là sự lắp ghép của mảng tâm trạng, mảng cốt truyện không theo trình tự thời gian mà đảo ngược theo dụng ý của tác giả tạo nên những hiện thực đứt gãy, quanh co phức tạp trong cấu trúc tiểu thuyết, tạo ra kiểu “truyện lồng trong truyện”. Ở đó, những sự kiện, tình huống, những biến cố như không có quan hệ với nhau nhưng lại liên đới gần nhau. Nói cách khác, đó là lối kết cấu đa tầng, đa tuyến, song hành, xoắn vặn, sắp đặt, lắp ghép…

- Tiểu thuyết đương đại khước từ truyền thống với sự đề cao tính chất “Trò chơi”: chơi ngôn từ, chơi kết cấu, chơi nhân vật, chơi lịch sử… với những sắp đặt, dán ghép, nhảy cóc, dòng ý thức, xen cài lồng ghép, vật hoá, số hoá, nhiều kết thúc, phá vỡ mạch truyền thống. Cuộc chơi kết cấu dẫn đến sự pha trộn giữa các thể loại, có nhiều văn bản khác nhau trong một tác phẩm: tiểu thuyết đan xen kịch, tiểu thuyết - nhật kí, tiểu thuyết - thư, tiểu thuyết - phóng sự, tiểu thuyết trong tiểu thuyết, tiểu thuyết đan xen thơ, ca dao, truyền thuyết, huyền thoại…

Nghệ thuật tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh qua “Đội gạo lên chùa” - 3


- Nhân vật tiểu thuyết là kiểu nhân vật phức hợp, đa bình diện. Đó là những nhân vật có tính cách và tâm lý phức tạp; kiểu nhân vật phi trung tâm, vênh lệch giữa vai tính cách và vai hình tượng, không có nhân vật lý tưởng. Khá phổ biến là kiểu nhân vật dị biệt, kì ảo, bản năng, người điên, kẻ lạc loài, có khi chỉ là cái bóng mờ ảo, .....

- Ngôn ngữ đa thanh, mang tính đối thoại, kết hợp nhiều kênh ngôn ngữ, có xu hướng làm nhòa ranh giới giữa tính tinh tuyển và thông tục. Trong tác phẩm có sự kết hợp nhiều giọng điệu: giọng điệu trữ tình, giọng điệu triết lý, giọng điệu hoài nghi, chất vấn, giọng điệu đối thoại, giọng điệu giễu nhại và giọng vô âm sắc...

- Về nghệ thuật trần thuật, tiểu thuyết đương đại quay lưng lại với vai trò toàn tri của người kể chuyện ngôi ba, trần thuật theo ngôi thứ nhất chiếm ưu thế. Trong tác phẩm có nhiều điểm nhìn trần thuật, có sự dịch chuyển điểm nhìn trần thuật, sự luân chuyển điểm nhìn người trần thuật.

- Về thủ pháp nghệ thuật, trong tiểu thuyết đương đại nhà văn sử dụng các thủ pháp huyền thoại, kì ảo. Nó cho phép nhà văn nhìn sâu hơn vào thế giới, vừa tạo ra sự lạ hoá để thu hút người đọc. Trong nhiều tiểu thuyết, bút pháp huyền thoại có khả năng tạo nên những hình tượng mang tính ẩn dụ cao và các hình tượng ẩn dụ này tồn hiện như một kí hiệu nghệ thuật đa nghĩa giàu chất tượng trưng. Ngoài ra các nhà tiểu thuyết con sử dụng bút pháp tượng trưng, giễu nhại…

Để làm rõ loại tiểu thuyết với lối viết “hiện đại”, chúng tôi xin lược qua một số ví dụ tiêu biểu:

1.1.1.1. Nguyễn Bình Phương

Nguyễn Bình Phương tâm niệm: không có sự sáng tạo nhà văn sẽ tự tiêu diệt mình. Do đó, nhà văn đã vượt qua những ràng buộc của truyền thống, nỗ lực đổi mới, cách tân tiểu thuyết với một loạt các tác phẩm: Vào cõi


(1991), Những đứa trẻ chết già (1994), Người đi vắng (1999), Trí nhớ suy tàn (2000), Thoạt kì thủy (2004), Ngồi (2006). Tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương ám ảnh người đọc bởi sự khủng hoảng niềm tin của con người, của nhà văn vào cuộc đời, sự đổ vỡ của trật tự gia đình và xã hội, sự đánh mất bản ngã, sự băng hoại về đạo đức, sự khốc liệt, đau đớn, bơ vơ, tình trạng bất an của con người. Vì thế, tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương thường có cốt truyện phân mảnh, lối kết cấu song hành xoắn vặn. Trong Vào cõi gồm hai mạch truyện: mạch chuyện của Tuấn với cõi thực và cõi mơ và mạch chuyện của chị em Vang, Vọng với cõi quê và cõi phố, cõi thế và cõi chết. Hay trong Những đứa trẻ chết già với mạch cõi âm (Câu chuyện về mấy hồn ma trở về làng trong các Vô thanh) và cõi trần (câu chuyện về hai gia đình ông Trường hấp và ông Trinh gắn với bí mật kho báu mà cả hai gia đình đều quyết giành lấy). Trong Thoạt kì thủy có cấu trúc ba phần: A- Tiểu sử (của 18 nhân vật được đánh số thứ tự từ 1 đến 18 sắp xếp không theo một tiêu chí cụ thể nào. Phần này chưa có sự thống nhất giữa tiêu đề và nội dung triển khai, nhà văn không tập trung vào tiểu sử mà chỉ miêu tả ngoại hình, thói quen của các nhân vật); B- Chuyện (gồm hai câu chuyện được đan lồng vào nhau: câu chuyện về con cú bị bắn rụng trên sông Cái từ lúc 11 giờ 15, bay lên lúc 12 giờ và câu chuyện ở một làng nhỏ ven sông chủ yếu xoay quanh nhân vật tên Tính, bị mọi người coi là điên); C - Phụ chú (gồm một tác phẩm của ông Phùng tên là Và cỏ và mười một giấc mơ của Tính và Hiền).

Trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, nhân vật thường có tính cách, tâm lý phức tạp. Đó là những con người luôn sống với thế giới tâm linh, nhiều dằn vặt, đau khổ. Nhiều kiểu nhân vật có tính dị biệt, bản năng,…. Trong Ngồi các nhân vật chính đều bị xoá tên, hoặc bị làm mờ hay làm cho bị vắng mặt. Đó là Khẩn, Minh, Thuý, Trương, Kim đều bị xoá tên đi bằng kỹ thuật


bàn phím. Nhân vật dị biệt như: Tính bị coi là điên hay nhân vật con Cú trong

Thoạt kì thủy

Nguyễn Bình Phương sử dụng linh hoạt các điểm nhìn trần thuật. Chẳng hạn trong Thoạt kì thủy bao gồm điểm nhìn bên trong là cõi vô thức của Tính và điểm nhìn bên ngoài chính là câu chuyện về cuộc đời Tính và những người dân xóm Sọ. Đặc biệt Nguyễn Bình Phương có lúc đã trao điểm nhìn trần thuật cho các nhân vật khiếm khuyết về tâm lý do bị những ám ảnh lạ thường và các nhân vật kỳ ảo: những bào thai trong Người đi vắng, những người điên trong Thoạt kì thuỷ, cô gái trong Trí nhớ suy tàn với những ám ảnh về Tuấn, Vũ, những góc phố Hà Nội…Với sự dịch chuyển điểm nhìn giúp cho ý nghĩa của tác phẩm trở nên phong phú hơn, dân chủ hơn.

Thủ pháp huyền thoại, kỳ ảo được Nguyễn Bình Phương sử dụng một cách triệt để. Trong Vào cõi ta thấy xuất hiện cõi thực và cõi mơ, cõi ảo. Ở cõi ảo là những giấc mơ nhân vật Tuấn, cảnh đáng thương của chị em Vang, Vọng. Cõi thực bị chi phối bởi cõi ảo, để quên đi những việc đã làm Tuấn tìm về với tình yêu đã mất thủa nào, nhân vật “Hắn” luôn sống trong ám ảnh kẻ ăn cắp vô tình hắn giết sẽ quay lại báo thù. Vang thì cam chịu, buông xuôi tất cả, Vọng cuối cùng phải trở về quê. Trong Những đứa trẻ chết già có nhiều yếu tố kì ảo đan cài với hiện thực giữa cõi sống và cõi chết, quá khứ và hiện tại. Không gian hiện tại là vùng đất sống linh dị và quái gở với những điềm báo, mộng mị. Cõi âm là hình ảnh chiếc xe trâu lao vào hư ảo, những người ngồi trên xe đối đáp trong hồi ức, liên tưởng. Với thủ pháp huyền thoại hoá giúp nhà văn khám phá những tầng chìm của hiện thực cuộc sống, xã hội mà còn đi sâu miêu tả, phản ánh đời sống nội tâm, thế giới tâm linh của con người.

Trong tiểu thuyết cúa mình, Nguyễn Bình Phương đã xóa nhòa ranh giới giữa các thể loại, đan xen các thể loại khác vào tiểu thuyết, mang đến


một hình thức cấu trúc tiểu thuyết mới. Sự hòa nhập của các thể loại đã mang lại cho tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương những cách tân độc đáo về cấu trúc để tái hiện một cách sinh động, đa dạng cuộc sống: Vào cõi, Những đứa trẻ chết già (tiểu thuyết lồng tiểu thuyết), Người đi vắng (tiểu thuyết - huyền - sử), Trí nhớ suy tàn (tiểu thuyết - thơ), Thoạt kì thuỷ (Tiểu thuyết - điện ảnh), Ngồi ( tiểu thuyết - âm nhạc).

Như vậy, với sự đổi mới trong cách viết Nguyễn Bình Phương đã khẳng định được tài năng cũng như những đóng góp của nhà văn trong quá trình hiện đại hoá thể loại tiểu thuyết.

1.1.1.2. Nguyễn Việt Hà

Trong không khí chung của thời kỳ đổi mới, Nguyễn Việt Hà cũng là một trong số những người mạnh dạn cách tân thể loại tiểu thuyết. Với Cơ hội của chúa Khải huyền muộn, Nguyễn Việt Hà đã được các nhà phê bình đánh giá cao trong nỗ lực làm mới thể loại tiểu thuyết.

Chúng ta bắt gặp trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà một thế giới hỗn loạn, hoang mang, sự tha hoá của con người với những đổ vỡ giá trị truyền thống và con người “chơi cùng cái hỗn loạn ấy”. Qua đó nhà văn cho người đọc thấy được sự bế tắc, bất lực, thiếu niềm tin và hoài nghi về cuộc sống.

Trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà có sự đan xen, phức hợp nhiều thể loại khác nhau trong tiểu thuyết. Ở tiểu thuyết Cơ hội của chúa có sự xuất hiện của các thể loại: kịch (Vở kịch nhiều màn ở chương năm), nhật ký (của Thuỷ, Nhã, Tâm, Hoàng); truyện ngắn (2 truyện ngắn của Hoàng); nghị luận (những vấn đề của đời sống); thư (Thuỷ viết cho Bình, Thuỷ viết cho Nhã…). Nhà văn còn đưa vào tác phẩm của mình kiểu kết cấu nhân vật trong nhân vật, truyện lồng trong truyện. Khải huyền muộn có kết cấu song trùng của hai câu chuyện: một câu chuyện được hư cấu cùng với quá trình hư cấu của chính câu chuyện đó.


Điểm đặc biệt trong tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà là các nhân vật đều có thể thay nhà văn trong việc kể chuyện. Vì thế, điểm nhìn trần thuật linh hoạt với nhiều trường nhìn, nhân vật có thể tự kể chuyện của mình, kể về cái nhìn của mình với những nhân vật khác. Trong Cơ hội của Chúa ngoài lời người kể chuyện còn có những lời tự thuật dưới hình thức nhật ký, độc thoại nội tâm của Hoàng, Tâm, Nhã, Thuỷ. Nhân vật kể chuyện xưng “tôi” với nhiều điểm nhìn khác nhau của nhân vật “lập thân”, “ lập nghiệp”. Các nhân vật Tâm, Thuỷ, Bình với trường nhìn đẳng lập với nhau đã có những nhận xét khá toàn diện về Hoàng. Nhân vật Tâm cho rằng Hoàng là người thông thái, đáng kính nhưng không hợp thời. Thuỷ nhìn thấy ở Hoàng là con người sống tạm bợ, “dựa dẫm”, nghiện ngập và ích kỷ. Còn Bình lại cho rằng Hoàng là gã lưu manh, kẻ đã “quen hàng chục đàn bà rồi”. Với điểm nhìn tự trị, Hoàng nhận thấy mình “là kẻ bạc nhược không neo đứng bất cứ chỗ nào”. Còn trong Khải huyền muộn điểm nhìn trần thuật cũng luôn có sự thay đổi: gồm người trần thuật và Bạch cùng các nhân vật của anh là Vũ, Cẩm, My.

Viết về hiện thực hỗn mang cho nên nhân vật trong tác phẩm của Nguyễn Việt Hà không phải là những con người mang lý tưởng mà là những con người lạc lõng, thiếu hội nhập với cuộc sống thực tại (Hoàng trong Cơ hội của Chúa); Là kiểu nhân vật tha hoá, chạy theo danh lợi, bất chấp thủ đoạn (Lâm, Trần Bình, Sáng trong Cơ hội của Chúa; Vũ trong Khải huyền muộn).

Tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà với lối kết cấu truyện của nhiều truyện, tính liên văn bản, lối trần thuật phi trung tâm, thủ pháp nhại, tự nhại… đã biến tiểu thuyết thành cuộc chơi ngôn từ với nhiều thử nghiệm của nghệ thuật.

1.1.1.3. Tạ Duy Anh

Tạ Duy Anh quan niệm viết văn là một nghề cao quý và mỗi người phải đi và tạo ra con đường đi của riêng mình, nếu ai cũng giống ai thì điều đó thật vô nghĩa. Do đó trong sự đổi mới của văn học, Tạ Duy Anh xuất hiện như


một hiện tượng nổi bật và là một cây bút sung sức với những thể nghiệm táo bạo trong sáng tác văn chương.

Với khát vọng đem lại luồng gió mới cho tiểu thuyết Việt Nam đương đại, Tạ Duy Anh đã tiếp nhận văn học phương Tây để xây dựng cho tiểu thuyết của mình hướng đi riêng. Trong những tác phẩm của mình, Tạ Duy Anh không ngần ngại viết về cái xấu xa, thói lừa lọc, bỉ ổi, đê tiện… của người đời để hướng con người tới sự hoàn mỹ. Nhà văn đã cho ra đời những tác phẩm tâm huyết gây được sự chú ý: Lão Khổ (1992), Đi tìm nhân vật (1999), Thiên thần sám hối (2004), Giã biệt bóng tối (2008). Tạ Duy Anh đã có những cách tân táo bạo, cốt truyện là sự lồng ghép, đan chéo của các câu chuyện. Trong Thiên thần sám hối cốt truyện là mảnh ghép của nhiều câu chuyện. Đó là câu chuyện của bào thai còn trong bụng mẹ kể về ba ngày trước khi nó chào đời với hàng loạt những chuyện mà nó nghe được khi mẹ nó giúp đỡ các sản phụ khác. Là câu chuyện một cô gái bị gã sở khanh lừa có thai, cô đi vào bệnh viện phá bỏ cái thai như trút một gánh nặng. Chuyện một người đàn bà nông dân đẻ toàn con gái bị người chồng nghiện rượu đánh đập, bỏ ra thành phố trở thành vợ chung của bốn người đàn ông, mang thai mà không biết là con ai…. Qua những mảnh ghép đó Tạ Duy Anh đã cho người đọc thấy được hiện thực xã hội với sự tha hoá, xuống cấp của con người. Trong tiểu thuyết Lão khổ các chương đều được đặt tên và dường như mỗi chương là một sự hoàn kết các sự kiện vì thế người đọc có thể đọc chương nào trong tác phẩm đều được. Hay trong Giã biệt bóng tối có nhiều câu chuyện được móc ngoặc vào nhau trên sườn câu chuyện là một chú bé mồ côi tên Thượng. Còn trong Đi tìm nhân vật, Tạ Duy Anh đã có những cố gắng tạo thể nghiệm tính liên văn bản: tác giả trích dẫn nguyên văn lời tự thú trong cuốn sổ của tiến sĩ N, nhật ký của Bân, lá thư của Thảo Miên, đặc biệt là trong đó còn có bốn câu chuyện tích, …

Xem tất cả 118 trang.

Ngày đăng: 29/05/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí