dịch vụ ngoài lãi mang lại. Mặc dù tín dụng là nghiệp vụ mang lại nguồn thu nhập chiếm tỷ trọng lớn nhưng nếu các NHTM khai thác được thế mạnh từ các hoạt động dịch vụ khác sẽ góp phần cải thiện thu nhập đáng kể trong bối cảnh kinh tế hiện đang còn nhiều khó khăn, thử thách từ áp lực cạnh tranh của các ngân hàng nước ngoài đang dần xâm nhập thị trường trong nước. Tuy nhiên khi phát triển dịch vụ tài chính hiện đại, các NHTM cần hoạch định chi tiết đặc tính sản phẩm tùy thuộc vào từng loại hình: dịch vụ thanh toán, thẻ, tư vấn đầu tư tài chính, cho thuê két sắt, bảo hiểm,…Việc xác định rõ tên gọi và chất lượng các sản phẩm dịch vụ này sẽ giúp cho ngân hàng tạo ra sự khác biệt, khách hàng sẽ phân biệt rõ sự khác nhau giữa các sản phẩm của các ngân hàng. Từ đó dễ dàng xây dựng lợi thế riêng biệt, nhanh chóng định vị thương hiệu trong lòng khách hàng. Có như thế, mới tạo ra hình ảnh hay thương hiệu trên thị trường.
Để chiến lược đa dạng hóa thu nhập thực sự đạt được hiệu quả mong muốn và khả thi, các nội dung triển khai cần hướng đến nhu cầu của khách hàng. Hiện nay, trong điều kiện kinh tế thị trường, nhu cầu khách hàng rất đa dạng và thường xuyên thay đổi. Đó cũng là một thử thách đồng thời là cơ hội cho ngân hàng. Các ngân hàng nên biết nắm bắt kịp thời và nghiên cứu tường tận đặc tính nhu cầu của khách hàng. Trên cơ sở đó thiết kế những sản phẩm dịch vụ khai thác tối đa sự thỏa mãn của khách hàng, không ngừng cải tiến chất lượng và hình thức sản phẩm để thu hút ngày càng nhiều khách hàng hơn. Mặc dù khuyến khích các NHTM chủ động khai thác và mở rộng phạm vi hoạt động nhưng các NHTM phải có sự chuẩn bị tốt để ứng phó với những rủi ro có thể xảy ra. Sự chuẩn bị này phải bao gồm cả cơ sở hạ tầng, nhân lực, công nghệ và quản trị tốt. Ngân hàng phải hoạch định tốt kế hoạch kinh doanh, dự báo những nguy cơ tiềm ẩn có thể xảy ra và các phương án tài trợ thích hợp. Và đặc biệt, kế hoạch này phải mang tính chất dài hạn. Có như vậy, NHTM mới không bị sốc trước những tổn thất do rủi ro mang lại, đủ sức giữ vững vị thế thế cạnh tranh trước các đối thủ mạnh, đồng thời đảm bảo ổn định bền vững.
Việt Nam là nước có dân cư tuổi 15+ sử dụng dịch vụ tài chính với tỷ lệ rất thấp so với các nước trong CPTPP (Thống kê từ IMF). Ngày nay, với sự gia tăng về số lượng mạng lưới, chi nhánh, chất lượng sản phẩm dịch vụ ngân hàng thì ngoài những sản phẩm dịch vụ truyền thống đã xuất hiện nhiều dịch vụ mới hiện đại đòi hỏi một kiến thức tài chính nhất định. Do
vậy, dân cư cần có một chương trình giáo dục tài chính là tối cần thiết vừa góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của chính các ngân hàng, vừa trang bị thêm những kiến thức tài chính cơ bản cho dân cư và các tổ chức, phục vụ cho công tác hỗ trợ nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ.
Nói đến chất lượng dịch vụ ngân hàng là chúng ta đề cập đến tính tiện ích của nó. Song song với quá trình phát triển dịch vụ ngân hàng theo quy mô, chất lượng dịch vụ không ngừng tăng lên, giúp cho khách hàng ngày càng hài lòng hơn với các tiện ích của dịch vụ ngân hàng.
Thỏa mãn nhu cầu khách hàng, nâng cao sự nhận biết của khách hàng và tạo dựng sự trung thành của khách hàng luôn là điều các NHTM Việt Nam cần làm. Do vậy việc xây dựng chính sách khách hàng hợp lý, đủ sức cạnh tranh là việc cần thiết để duy trì và phát triển mối quan hệ với khách hàng. Chính sách khách hàng giúp các NHTM Việt Nam lựa chọn đúng đối tượng khách hàng mình phục vụ, tạo nên một hệ thống khách hàng truyền thống, từ đó nâng cao vị thế cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường.
Các ngân hàng cần đơn giản hóa các quy trình cung cấp dịch vụ, trang bị nhiều phương tiện giao dịch như quan tâm đặt thêm máy ATM tại các điểm đông người qua lại, định kỳ bảo trì máy, kiểm tra kịp thời các tình trạng nghẽn mạch, hết tiền, tạm ngưng phục vụ để khắc phục sự cố kịp thời; phí dịch vụ có thể chấp nhận được; tuyên truyền cho khách hàng biết các tiện ích của dịch vụ ngân quỹ, cho thuê két sắt, giữ hộ tài sản, khuyến khích khách hàng sử dụng cheque trong thanh toán đảm bảo tính an toàn
5.2.4. Mở rộng thị trường ra ngoài nước
Có thể bạn quan tâm!
- Cơ Hội Gia Tăng Năng Lực Cạnh Tranh Và Tăng Cường Ổn Định Cho Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam Khi Gia Nhập Cptpp
- Những Thách Thức Cho Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam Trong Việc Gia Tăng Vị Thế Cạnh Tranh Và Ổn Định Ngân Hàng Khi Gia Nhập Cptpp
- Hàm Ý Chính Sách Nhằm Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Và Tăng Cường Ổn Định Tài Chính Của Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam Trong Bối Cảnh Hội Nhập Cptpp
- Năng lực cạnh tranh và mức độ ổn định của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong bối cảnh tham gia Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương - 28
- Năng lực cạnh tranh và mức độ ổn định của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong bối cảnh tham gia Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương - 29
- Hồi Quy Tác Động Cố Đinh Cho Hàm Chi Phí Biên (Fem)
Xem toàn bộ 267 trang tài liệu này.
Phát triển các kênh phân phối nước ngoài dưới hình thức hiện diện thương mại của các NHTM Việt Nam ở nước ngoài, nhất là tại những nước và vùng lãnh thổ có tiềm năng phát triển với Việt Nam.
Nhiều NHTM Việt Nam đã mở chi nhánh, văn phòng đại diện và công ty con ở nước ngoài, đó là NHTM cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) có văn phòng đại diện tại Singapore và công ty con tại Hongkong; NHTM cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) mở chi nhánh, văn phòng đại diện tại Campuchia; Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương tín (Sacombank) mở chi nhánh ở Lào, Campuchia; Ngân hàng TMCP Quân đội (MB) mở chi nhánh nước ngoài đầu tiên tại Lào vào tháng 12/2010 và tiếp tục mở rộng thị trường sang
Campuchia (tháng 12/2011); Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội (SHB) cũng đã khai trương chi nhánh tại Campuchia,Tháng 6/2010, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (Agribank) cũng đã chính thức khai trương chi nhánh đầu tiên tại Campuchia. Ngoài hai thị trường truyền thống là Lào, Campuchia, tháng 9/2011, NHTM cổ phần Công thương Việt Nam (Vietinbank) mở chi nhánh tại thành phố Frankfurt (Đức), đây được coi là tiền đề cho sự phát triển mở rộng mạng lưới tại thị trường quốc tế, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh của ngân hàng Việt trên thế giới. Đến tháng 4/2012, VietinBank lại mở thêm chi nhánh thứ hai ở Berlin (Đức). Sau Đức, Vietinbank lại chọn mở rộng thị trường tại Lào, Hiện Vietinbank có văn phòng đại diện tại Singapore, tại Pari (Pháp)…
Ngoài hai thị trường Lào và Campuchia trong khu vực ASEAN, các ngân hàng Việt cũng chú ý đến thị trường các nước thành viên trong CPTPP. Đây được coi là môi trường kinh doanh hấp dẫn, được dự đoán là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất khu vực trong trung hạn.
5.2.5. Kịp thời ứng phó với những biến động từ nền kinh tế vĩ mô trong khối CPTPP.
Từ kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy có sự tác động của các biến kinh tế vĩ mô như GDP và lạm phát đến NLCT và ổn định ngân hàng. Các biến này thường nằm ngoài tầm kiểm soát của các NHTM. Nắm bắt được mối hệ tương quan này, các NHTM cần xây dựng chính sách dự báo tốt những thay đổi của nền kinh tế. Từ đó có những biện pháp chủ động ứng phó những thay đổi nhằm bảo vệ tài sản cho ngân hàng, hạn chế phát sinh các chi phí ngoài mong muốn: trích lập dự phòng rủi ro, hạn chế cho vay những ngành nghề rủi ro, tích cực thu hồi các khoản nợ tiềm ẩn nguy cơ,…Như vậy vừa duy trì khả năng sinh lời cho tài sàn vừa đảm bảo sự phát triển ngân hàng được bền vững
Đối với các nhà quản lý, hoạch định chính sách, việc cần làm là duy trì sự bình ổn cho thị trường tiền tệ, kiểm soát lạm phát, đưa ra các chỉ tiêu quản lý tốc độ tăng trưởng tín dụng của các NHTM. Ngoài ra cần theo dõi chặt chẽ hơn hoạt động kinh doanh ngân hàng, nắm bắt và chỉ đạo thực hiện việc sáp nhập, mua bán ngân hàng, tránh các trường hợp sở hữu chéo ngân hàng ảnh hưởng đến hiệu quả và sự an toàn của VCSH, từ đó ảnh hưởng đến ổn định chính ngân hàng và của toàn hệ thống.
5.2.6. Nâng cao năng lực quản lý điều hành và phát triển nguồn nhân lực
Tiếp tục nâng cao năng lực quản trị rủi ro thị trường và tác nghiệp theo thông lệ quốc tế: Tách bạch triệt để chức năng nhiệm vụ giữa hai bộ phận kinh doanh và quản trị rủi ro. Nâng cao vai trò độc lập của hệ thống quản trị rủi ro, từng bước áp dụng quản trị rủi ro theo định lượng và các mô hình kiểm nghiệm khủng hoảng. Xây dựng hệ thống cảnh báo sớm và phát triển hệ thống công cụ, chương trình phần mềm phục vụ công tác quản lý rủi ro thị trường, tác nghiệp theo chuẩn mực và thông lệ quốc tế.
Việc đổi mới mô hình hoạt động, nâng cao năng lực quản trị cần được tiến hành trên các mặt sau:
- Hoàn thiện tổ chức bộ máy từ Hội sở chính đến các chi nhánh theo hướng gọn nhẹ, phù hợp với thông lệ quốc tế đi đôi với tiếp tục mở rộng hợp lý mạng lưới chi nhánh, điểm giao dịch và các kênh phân phối khác của ngân hàng, Chú trọng đa dạng hóa các kênh phân phối từ xa và các kênh phân phối điện tử, tự động nhằm giảm các chi phí.
- Thu hút hơn nữa sự tham gia của các đối tác nước ngoài, các nhà đầu tư chiến lược vào quản lý điều hành hoạt động của ngân hàng, qua đó, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, nâng cao năng lựa cạnh tranh.
Để nâng cao năng lực cạnh tranh khi tham gia CPTPP, các NHTM Việt Nam cần phải tập trung vào yếu tố con người, cụ thể là: xây dựng và phát triển một đội ngũ nhân sự đủ lớn mạnh về chất và lượng, xác định trách nhiệm và gắn chặt quyền lợi với trách nhiệm của từng cán bộ, giao quyền chủ động và quyết định cho nhân viên, kích thích tinh thần sáng tạo, phát triển ý tưởng, đề cao tinh thần hợp tác và làm việc theo nhóm nhằm tăng khả năng chia sẻ tri thức và nâng cao chất lượng công việc năng lực quản lý và quản trị điều hành; Các ngân hàng phải cần xem việc đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động ngân hàng là lợi thế cạnh tranh cần thiết.
Gia nhập hiệp định CPTPP sẽ mang lại nhiều thuận lợi cho đội ngũ nhân lực Việt Nam nói chung và ngành ngân hàng Việt Nam như tạo thêm việc làm cho người lao động, thúc đẩy nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng đặt ra rất nhiều thách thức như có khả năng tỷ lệ thất nghiệp sẽ tăng do một số NHTM có quy mô nhỏ không đủ sức cạnh tranh sẽ phải được cải tổ, sắp xếp lại, sáp nhập. Tính ổn định của ngân hàng sẽ
chịu tác động rất lớn khi có sự gia nhập của các tổ chức tín dụng từ bên ngoài vào Việt Nam cũng như các hoạt động phải đảm bảo thỏa mãn các cam kết chung của 11 nước. Ngoài ra, khi gia nhập CPTPP sẽ có xu thế chuyển dịch lao động giữa các nước tham gia, điều này tạo thách thức lớn trong đào tạo, nâng cao tay nghề cho người lao động, trước thách thức đó, các ngành liên quan cần tập trung đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đủ năng lực cạnh tranh. Vì vậy, để nâng cao vị thế cạnh tranh và tăng cường ổn định tài chính, chiến lược phát triển sắp tới của ngân hàng cần xây dựng trên cơ sở:
Thứ nhất, trình độ công nghệ ngân hàng phải theo kịp trình độ phát triển công nghệ của các ngân hàng lớn nước ngoài, bảo đảm khả năng cung cấp các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại mà quốc tế có.
Thứ hai, trình độ kỹ thuật và khả năng ứng dụng công nghệ của đội ngũ cán bộ ngân hàng phải tương xứng với tính hiện đại của công nghệ. Cán bộ ngân hàng phải có khả năng vận hành tốt các hệ thống ứng dụng công nghệ tiên tiến và sáng tạo dựa trên các nền tảng công nghệ hiện đại.
Thứ ba, ứng dụng công nghệ tại Việt Nam phải phù hợp với nhu cầu của khách hàng là người Việt Nam, các sản phẩm dịch vụ ứng dụng công nghệ ngân hàng phải được thiết kế phù hợp với nhu cầu khách hàng trong điều kiện phát triển của nền kinh tế.
5.2.7. Xây dựng hành lang pháp lý theo chuẩn mực quốc tế
Cần nhanh chóng kiện toàn hệ thống luật pháp, hệ thống các chỉ tiêu đánh giá kinh tế cho phù hợp thông lệ quốc tế. Đặc biệt là khung pháp lý về tự do hóa tài chính trong lĩnh vực ngân hàng nhằm tạo ra sân chơi bình đẳng, phù hợp với thông lệ quốc tế, an toàn cho hệ thống NHTM, bao gồm ngân hàng trong nước, ngân hàng liên doanh, ngân hàng nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Cần xóa bỏ các quy định mang nặng tính phân biệt đối xử đối với các định chế tài chính nước ngoài.
Trong điều kiện hội nhập và tình hình môi trường pháp lý lĩnh vực ngân hàng Việt Nam còn kém phát triển, những yêu cầu đặt ra cho hệ thống pháp lý là cần thiết và là cơ sở cho việc xây dựng những giải pháp và lộ trình hoàn thiện môi trường pháp lý phù hợp với điều kiện Việt Nam và phù hợp với quá trình hội nhập:
Thứ nhất, cần nhanh chóng xây dựng, kiện toàn hệ thống luật lệ, chính sách thống nhất phù hợp với thông lệ quốc tế. Hội nhập vào thị trường tài chính ngân hàng thế giới buộc các thành viên phải tuân thủ các quy chế chung trên thị trường, cũng như các quy chế của các định chế tài chính quốc tế đặt ra cho các thành viên. Điều đó đòi hỏi hệ thống luật lệ, chính sách liên quan đến hoạt động tiền tệ ngân hàng phải được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thông lệ quốc tế, với việc chuyển hướng kinh doanh ngân hàng theo cơ chế kinh tế thị trường hiện đại. Đây chính là một điều kiện để ngành ngân hàng có thể tiếp cận, tham gia vào các hoạt động đầu tư, cung cấp dịch vụ ngân hàng, phát triển các sản phẩm dịch vụ mới với phạm vi hoạt động không chỉ trong nước mà còn cung ứng ra nước ngoài. Hệ thống luật lệ chính sách thống nhất, phù hợp với thông lệ quốc tế cũng sẽ tạo điều kiện cho mỗi quốc gia kiểm soát tốt hơn hoạt động của các NHNNg trên thị trường nội địa.
Thứ hai, trong điều kiện hội nhập hệ thống pháp lý đòi hỏi phải vững mạnh và đủ khả năng thúc đẩy, tạo điều kiện cho các ngân hàng phát triển. Hệ thống pháp lý phải đáp ứng yêu cầu của việc bảo đảm cho hoạt động ngân hàng trong điều kiện, hoàn cảnh mới được hợp pháp, phải luôn được cải tiến và hoàn thiện theo sự phát triển hoạt động ngân hàng theo hướng quốc tế hóa, cần thiết phải đi trước để thúc đẩy các hoạt động ngân hàng được quốc tế hóa.
Thứ ba, cần phải có một cơ chế và trình độ quản lý, điều hành hệ thống pháp lý tốt, tạo điều kiện cho hoạt động tài chính, ngân hàng thông suốt, hợp pháp, công bằng và ổn định. Trình độ quản lý phải đáp ứng yêu cầu việc thực thi và bảo vệ tính công bằng của các quy định pháp lý, phải bảo đảm cho hoạt động của toàn hệ thống ngân hàng là hợp lệ. Các cơ chế thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng phải được xây dựng và thực thi một cách hiệu quả.
Thứ tư, trong sân chơi hội nhập các cấp quản lý ở mỗi quốc gia phải bảo đảm được sự ổn định của môi trường pháp lý của nước mình để bảo đảm cho các hoạt động ngân hàng của các nhà đầu tư nước ngoài không bị xáo trộn, biến động ngoài dự tính của họ. Môi trường pháp lý phải ổn định như một điều kiện, một yêu cầu của quốc tế đối với hoạt động ngân hàng.
Trên thực tế, phần lớn các tiêu chuẩn chất lượng của Việt Nam còn kém xa so với các nước khác trong CPTPP. Hệ thống số liệu thống kê tại Việt Nam còn thiếu và chưa phù hợp với tiêu chuẩn chung so với thế giới. Một khi hệ thống chỉ tiêu của Việt Nam còn khác biệt quá nhiều với các thành viên CPTPP, việc hợp tác, hội nhập sẽ rất khó khăn. Do vậy, để bước vào
thị trường chung CPTPP thì cùng với nỗ lực cải cách, đổi mới nền kinh tế, việc cải thiện hệ thống luật pháp, xây dựng các tiêu chí theo thông lệ quốc tế và từng ngành, lĩnh vực phải vươn lên nâng cao chất lượng theo chuẩn chung của thế giới có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Việc xây dựng các quy định pháp lý phù hợp với các thông lệ và các cam kết quốc tế là tất yếu trong tiến trình toàn cầu hóa mọi mặt của nền kinh tế thế giới nhằm tạo ra một môi trường, sân chơi quốc tế thống nhất, tiêu chuẩn hóa và rõ ràng. Hệ thống pháp lý phải minh bạch và phù hợp với các thông lệ, thể chế, quy định quốc tế và các cam kết hội nhập. Hệ thống pháp lý cũng phải bảo đảm sự bình đẳng và mang tính mở cửa vì quyền lợi của tất cả các nước tham gia hoạt động kinh tế quốc tế với nhau.
5.3. Những hạn chế và hướng phát triển
Thông qua các kết quả đạt được, nghiên cứu đã có những đóng góp nhất định cả về lý thuyết lẫn thực tiễn, tuy nhiên luận án cũng có những hạn chế nhất định:
Thứ nhất, vì dữ liệu các NHTM Việt Nam trong giai đoạn tác giả nghiên cứu từ 2010 đến 2018, có nhiều ngân hàng yếu kém và đang trong giai đoạn sáp nhập, hợp nhất, bị kiểm soát đặc biệt nên hạn chế về số liệu và tính trung thực của dữ liệu nguyên cứu. Từ đặc thù trên nên nghiên cứu cũng không có điều kiện xem xét dữ liệu của các ngân hàng trước và sau tái cấu trúc.
Thứ hai, CPTPP được ký kết từ tháng 3/2018 và chính thức có hiệu lực từ 14/01/2019 đối với Việt Nam, nhưng thực tế tại Việt Nam chủ yếu chỉ đang trong giai đoạn đàm phán thống nhất các thỏa thuận chung, đang tiến hành xây dựng chiến lược, kế hoạch thực thi. CPTPP được áp dụng tại Việt Nam thời gian chưa đủ dài để có nguồn dữ liệu nghiên cứu, vì vậy các đánh giá, nhận định còn mang tính chủ quan.
Thứ ba, chưa đi sâu nghiên cứu với các cam kết trong CPTPP về lĩnh vực ngân hàng có quan hệ tác động đến từng thành viên trong CPTPP đến NHTM Việt Nam.
Thứ tư, việc đánh giá NLCT của các NHTM VN so với hệ thống ngân hàng các nước thành viên CPTPP gặp khó khăn trong vấn đề thu thập dữ liệu minh chứng tính toán các chỉ tiêu dùng để so sánh.
Để khắc phục được hạn chế này, tác giả đề xuất hướng nghiên cứu tiếp theo là nghiên cứu trong thời gian dài hơn, phạm vi rộng hơn hoặc sử dụng thêm số liệu của một số quốc gia đã triển khai và thực thi CPTPP để tăng độ tin cậy cho các kết luận nghiên cứu.