năng lực tài chính của các NHTMCPVN. Luận án đã sử dụng phương pháp so sánh để đánh giá năng lực tài chính của các NHTMCPVN với các NHTMNN hay NHTM một số nước trên thế giới. So sánh mức độ đáp ứng về năng lực tài chính của các NHTMCPVN với chuẩn mực quốc tế theo mô hình CAMELS
Phương pháp phân tích, tổng hợp, tư duy logic: Bằng phương pháp phân tích chi tiết, cùng với phương pháp lập luận, diễn giải và tổng hợp để trên cơ sở đó đưa ra những nhận xét xác đáng về đối tượng nghiên cứu
Bằng phương pháp tổng hợp, phân tích, Phương pháp chuyên gia và tư duy độc lập, tác giả đã đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao năng lực tài chính của các NHTMCP.
Để đảm bảo tính xác thực cho những đánh giá, nhận xét mang tính định tính, luận án đã thu thập thông tin trên báo cáo tài chính của 21 NHTMCP lựa chọn để đánh giá và phân tích. Những số liệu được thu thập khá chi tiết và bao quát, không chỉ thể hiện trực tiếp năng lực tài chính của các NHTMCPVN, mà còn thể hiện những căn nguyên dẫn đến thực trạng này.Vì vậy, mặc dù sử dụng phương pháp định tính trong nghiên cứu nhưng điều đó không làm mất đi ý nghĩa thực tiễn của những kết luận đánh giá và nội dung nghiên cứu của luận án.
7. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
(1) Những đóng góp mới về lý luận
- Luận án đã hệ thống hóa và hoàn thiện hơn những lý luận cơ bản về năng lực tài chính của NHTM như đưa ra quan điểm riêng về tài chính, năng lực tài chính NHTM. Đặc biệt luận án đã chú trọng vào việc phân tích cơ sở để dẫn giải đưa đến nội dung trình bày về lý luận năng lực tài chính của NHTM.
- Trình bầy nội dung về năng lực tài chính NHTM
- Cách tiếp cận khi đánh giá năng lực tài chính NHTM của luận án có tính đa chiều hơn, không chỉ đánh giá so với khung an toàn quốc tế mà luận án còn đánh giá việc nâng cao năng lực tài chính theo xu hưởng phát triển, bởi hướng đến việc đáp ứng các chuẩn mực an toàn theo tiêu chuẩn quốc về an toàn ngân hàng là nấc thang cao nhất mà NHTM phải đạt được, nhưng với xuất phát điểm khác nhau và điều kiện thực tế của mỗi quốc gia nên việc nâng cao năng lực tài chính là một hành trình của mỗi NHTM.
Có thể bạn quan tâm!
- Nâng cao năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam hiện nay - 1
- Nâng cao năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam hiện nay - 2
- Kết Quả Đạt Được Từ Các Công Trình Nghiên Cứu Trên
- Năng Lực Tài Chính Của Ngân Hàng Thương Mại. 1.2.1.khái Niệm Năng Lực Tài Chính Của Ngân Hàng Thương Mại.
- Nâng cao năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam hiện nay - 6
- Sự Cần Thiết Nâng Cao Năng Lực Tài Chính Của Ngân Hàng Thương Mại
Xem toàn bộ 224 trang tài liệu này.
- Phân tích rõ hơn cơ sở và ý nghĩa của các chỉ tiêu đánh giá năng lực tài chính NHTM.
- Làm rõ các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực tài chính NHTM để tạo cơ sở luận cho những giải pháp nâng cao năng lực tài chính của NHTM, đồng thời cách tiếp cận khi phân tích các nhân tố ảnh hưởng cũng thể hiện tính logic và hệ thống với các giải pháp được đề xuất ở chương 3.
- Chỉ ra những bài học kinh nghiệm nâng cao năng lực tài chính của các NHTMCP trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm của các nước khi thực hiện các giải pháp nâng cao năng lực tài chính NHTM.
(2) Những đóng góp mới về thực trạng khi đánh giá về nâng cao năng lực tài chính NHTM
- Luận án đã chuyên sâu hơn khi đánh giá thực trạng năng lực tài chính với nhóm các NHTM được thành lập theo mô hình công ty cổ phần. Mặt khác, để thuyết phục hơn với những kết luận về thực trạng, luận án đã chia các NHTMCP được khảo sát theo các nhóm có quy mô vốn chủ sở hữu và tổng tài sản khác nhau. Đây là điểm mới của luận án, vì ở các luận án nghiên cứu khác mới chỉ đánh giá thực trạng năng lực tài chính ở một NHTM hoặc ở các NHTM nhưng không có sự phân chia. Việc phân chia theo từng nhóm ngân hàng khảo sát sẽ giúp cho những nhận xét, đánh giá của luận án có tính thuyết phục cao hơn.
- Chỉ ra những đặc điểm hoạt động của các NHTMCP Việt nam.
- Luận án tiến hành đánh giá thực trạng năng lực tài chính của NHTMCP trong điều kiện biến động của nền kinh tế thế giới và Việt Nam sau khủng hoảng tài chính thế giới 2008 (2009- 2014). Đây là giai đoạn có nhiều thăng trầm đối với các NHTM nói chung cũng như năng lực tài chính của các NHTMCP nói riêng
- Việc phân tích, đánh giá năng lực tài chính được xem xét đa chiều để chỉ ra những nguyên nhân tác động và đề cập các giải pháp phù hợp.
- Các phân tích, đánh giá thể hiện quan điểm, nhận định riêng của tác giả
Những đóng góp mới về giải pháp nâng cao năng lực tài chính NHTM.
- Luận án đã chỉ ra những cơ hội và thuận lợi, thách thức và khó khăn đối với việc nâng cao năng lực tài chính của các NHTMCP Việt nam trong bối cảnh hiện nay.
- Trình bầy quan điểm nâng cao năng lực tài chính đối với các NHTMCP Việt nam.
- Một số giải pháp được đề xuất phù hợp với từng nhóm ngân hàng. Bên cạnh những giải pháp từ phía các NHTMCP, luận án cũng đề xuất các kiến nghị với Ngân hàng Nhà Nước và Chính Phủ nhằm tháo gỡ những vướng mắc và khó khăn cho các NHTMCP trong việc nâng cao năng lực tài chính.Các giải pháp và kiến nghị trình bày trong luận án thể hiện chính kiến của tác giả trên cơ sở phù hợp với lý luận, thực tế và bối cảnh kinh tế xã hội
8. KẾT CẤU ĐỀ LUẬN ÁN
Chương 1: Những lý luận cơ bản về năng lực tài chính ngân hàng thương mại Chương 2: Thực trạng năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
Chương 1
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NĂNG LỰC TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm kinh doanh của ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại.
Ngân hàng là tổ chức có nguồn gốc ra đời lâu đời nhất trong quá trình phát triển kinh tế của các quốc gia cũng như trên thế giới. Tiền thân từ những “cửa hiệu”đổi tiền, chuyển tiền thanh toán hộ và giữ hộ tài sản cho khách hàng, đến nay hệ thống ngân hàng đã có một sự phát triển vượt bậc cả về qui mô cũng như các dịch vụ cung cấp.Trong các tài liệu nghiên cứu và thực tiễn có nhiều định nghĩa khác nhau về ngân hàng. Theo giáo sư Fredric S. Mishkin “Ngân hàng là các tổ chức tài chính nhận tiền gửi và cho vay [11] hay theo giáo sư Peter S Rose “Ngân hàng là một trung gian tài chính nhận tiền gửi và cung cấp vốn vay; cung cấp một hệ thống các dịch vụ các dịch vụ của một định chế tài chính [15] Theo luật các tổ chức tín dụng số 47/ 2010/QH 12 được quốc hội Viêt nam ban hành ngày 16/6/2010 thì “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động Ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan” [14] .
Trong các loại hình ngân hàng, NHTM là những trung gian tài chính quan trọng nhất bởi qui mô khối lượng dịch vụ mà nó cung ứng cũng như vai trò trong nền kinh tế. Theo nhà kinh tế học David Begg “Ngân hàng thương mại là trung gian tài chính có giấy phép kinh doanh của Chính phủ để cho vay tiền và mở các tài khoản tiền gửi”Ở Mỹ “Ngân hàng thương mại là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành dịch vụ tài chính”Ở Pháp “Ngân hàng thương mại là những xí nghiệp thường xuyên nhận tiền gửi của công chúng dưới hình thức tiền gửi hay hình thức khác và họ dùng vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính” [8].
Theo luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 thì “Ngân hàng Thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận”.
Trong đó Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ sau đây:
Nhận tiền gửi;
Cấp tín dụng;
Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản.
Cho dù có nhiều định nghĩa về Ngân hàng Thương mại, nhưng tựu chung nó đều thể hiện những nét đặc trưng cơ bản.
- Với tư cách là một trung gian tài chính, NHTM là một doanh nghiệp kinh doanh đồng vốn. Họ được phép kinh doanh tiền gửi, thu nhận các khoản tiền gửi trong nền kinh tế trên nguyên tắc phải có trách nhiệm hoàn trả. - Là một doanh nghiệp kinh doanh đồng vốn nên các NHTM luôn tìm cách tối đa hóa lợi nhuận thông qua việc sử dụng nguồn vốn huy động được để cho vay, đầu tư cũng như các hình thức cấp tín dụng khác.
- Thực hiện các khoản thanh toán và các dịch vụ ngân hàng cho khách hàng.
Sự ra đời và phát triển của các NHTM luôn gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế, trong giai đoạn mới hình thành, hoạt động của các NHTM chủ yếu là đi vay để cho vay. Nhưng xu hướng chung của các NHTM trong vài thập niên trở lại đây là kinh doanh có tính tổng hợp và đa năng. Các NHTM hiện đại ngày nay đã trở thành những tập đoàn với các sản phẩm, dịch vụ vô cùng phong phú. Không chỉ dừng lại ở những nghiệp vụ huy động vốn và cho vay mà NHTM còn thực hiện các dịch vụ như kinh doanh ngoại hối, tư vấn tài chính, dịch vụ ngân hàng két sắt, kinh doanh vàng, mua bán nợ, cung cấp các công cụ phái sinh… Đặc biệt, các NHTM còn bước chân sang nhiều các lĩnh vực kinh doanh khác như kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm. Các sản phẩm, dịch vụ mà NHTM cung cấp không chỉ còn trong phạm vi quốc gia mà mang tính quốc tế trên phạm vi toàn cầu.
Xét về bản chất có thể nói NHTM là một trung gian tài chính cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính, trong đó nghiệp vụ chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi, cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán nhằm mục tiêu vì lợi nhuận.
1.1.1.2. Các loại hình ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại có nhiều loại tùy theo tiêu chí phân chia, nếu căn cứ vào tiêu chí sở hữu và góp vốn thì NHTM bao gồm:
Ngân hàng Thương mại nhà nước là NHTM thuộc sở hữu nhà nước, được thành lập bằng 100% vốn của ngân sách nhà nước cấp, với những Ngân hàng hoàn toàn thuộc sở hữu nhà nước đã được cổ phần hóa mà nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối thì cũng có thể vẫn được coi là NHTM nhà nước.
Ngân hàng thương mại cổ phần là ngân hàng được thành lập theo mô hình một công ty cổ phần, vốn điều lệ ban đầu là do các cổ đông sáng lâp đóng góp. Trong quá trình hoạt động, các NHTM phát hành thêm cổ phiếu để nhằm tăng vốn dựa trên chiến lược hoạt động của ngân hàng có sự thông qua của các cổ đông hiện hữu.
Ngân hàng thương mại cổ phần là một trong những loại hình ngân hàng phổ biến ở các nước trên thế giới hiện nay bởi tính ưu việt của mô hình tổ chức như khả năng mở rộng quy mô vốn hay tính minh bạch và cơ chế giám sát trong ngân hàng.
Ngân hàng thương mại nước ngoài là ngân hàng được thành lập ở nước ngoài theo quy định của pháp luật nước ngoài. Ngân hàng thương mại nước ngoài được hiển diện thương mại ở nước sở tại dưới hình thức văn phòng đại diện; Ngân hàng liên doanh; chi nhánh NHTM nước ngoài hay NHTM 100% vốn nước ngoài.
1.1.1.3. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại.
Thứ nhất: Ngân hàng thương mại là một ngân hàng kinh doanh tiền gửi
Trên thị trường tài chính, NHTM là tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất, chuyển tải những khoản vốn huy động được trong xã hội đến những chủ thể có nhu cầu chi tiêu và đầu tư. Với chức năng ban đầu là nhận tiền gửi của xã hội, NHTM đã mở rộng hoạt động và trở thành các chủ thể chuyên mua, bán quyền sử dụng vốn. Ngày nay có rất nhiều các tổ chức cung cấp dịch vụ ngân hàng ra đời và phát triển. Song người ta vẫn phân biệt NHTM với các TCTD khác ở chỗ NHTM là ngân hàng kinh doanh tiền gửi.
Thứ hai: Ngân hàng thương mại là kênh dẫn vốn quan trọng trong nền kinh tế.
Mặc dù NHTM không phải là tổ chức duy nhất thực hiện vai trò kinh doanh đồng tiền cũng như dẫn vốn trong nền kinh tế, nhưng ở bất kỳ nền kinh tế nào NHTM cũng được coi là trung gian tài chính quan trọng nhất trong nền kinh tế. Với
tính chất kinh doanh không bị giới hạn, hệ thống các NHTM luôn nắm giữ chủ đạo về quy mô tổng tài sản cũng như số lượng các nghiệp vụ. Hơn nữa, khối lượng séc hay tài khoản tiền gửi không kỳ hạn mà nó có thể tạo ra là bộ phận quan trọng nhất trong tổng cung ứng tiền tệ M1 của nền kinh tế [13]. Với vai trò quan trọng như vậy, nên NHTM trở thành kênh truyền dẫn vốn quan trọng nhất trong nền kinh tế. Khả năng truyền dẫn vốn của hệ thống NHTM thể hiện tính huyết mạch của luồng vốn chu chuyển.
Thứ ba: Hoạt động của NHTM có tính nhạy cảm cao, gắn liền với rủi ro và luôn chịu sự giám sát chặt chẽ của pháp luật.
Với đối tượng kinh doanh là tiền tệ và các dịch vụ liên quan đến tiền tệ nên hoạt động kinh doanh của NHTM luôn có tính nhạy cảm và rủi ro cao. Hơn nữa, với thị trường kinh doanh và đối tượng khách hàng rộng lớn nên mức độ rủi ro trong kinh doanh của ngân hàng ngày càng gia tăng. Rất nhiều những rủi ro mà NHTM phải đối mặt như: Rủi ro tín dụng; Rủi ro thanh khoản; Rủi ro lãi suất, tỷ giá; Rủi ro tác nghiệp…Những rủi ro mà NHTM phải gánh chịu không chỉ xuất phát từ nội tại của ngân hàng mà còn bị tác động của những yếu tố bên ngoài. Mặt khác,vì được phép nhận tiền gửi nên mức độ ảnh hưởng của NHTM đối với nền kinh tế là rất lớn, đó chính là lý do tại sao ở tất cả các nền kinh tế người ta rất quan tâm đến độ an toàn hoạt động của các ngân hàng thương mại. Những đổ vỡ của NHTM có thể dẫn đến “Hệ quả khôn lường”đối với tình trạng an ninh tài chính của một quốc gia cũng như sự phát triển của nền kinh tế. Hoạt động kinh doanh của NHTM thường đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ của hệ thống pháp luật thông qua vai trò quản lý giám sát trực tiếp của NHTW, với sự giám sát này sẽ hạn chế tình trạng chạy theo lợi nhuận, bất chấp rủi ro gây nên những tổn thất nặng nề cho NHTM.
Thứ tư: Quan hệ giữa ngân hàng với khách hàng là dựa trên sự tín nhiệm
Thực chất hoạt động kinh doanh ngân hàng là dựa trên chữ tín,với chức năng chuyên nhận tiền gửi trong khi mức vốn chủ sở hữu của ngân hàng là rất nhỏ bé. Vì vậy, lòng tin của khách hàng là yếu tố nền tảng quyết định đến khả năng thu hút khách hàng của ngân hàng. Điều này đòi hỏi các NHTM phải tôn trọng các nguyên tắc trong kinh doanh để đảm bảo an toàn thanh khoản- yếu tố quyết định đến lòng tin của khách hàng.
Thứ năm: Hoạt động của ngân hàng thương mại có tính cạnh tranh cao.
Hoạt động kinh doanh của NHTM là cung cấp các dịch vụ tài chính đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng, do đó đòi hỏi các NHTM không ngừng phát triển và nâng cao chất lượng các sản phẩm dịch vụ của mình. Khả năng cạnh tranh của các NHTM phù thuộc vào mức độ “hoàn hảo”của các sản phẩm dịch vụ mà nó cung cấp. Mặt khác, các sản phẩm dịch vụ của NHTM mang tính tương đòng dễ bắt chước và gắn chặt với yếu tố thời gian.Chính vì vậy, ngày nay các NHTM luôn chú trọng vào việc đầu tư công nghệ, cũng như nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để luôn đi đầu trong việc đưa ra các sản phẩm có tính riêng biệt để thu hút khách hàng. Đặc biệt, với xu hướng quốc tế hóa và sự mở cửa của thị trường dịch vụ tài chính hiện nay càng tạo nên áp lực cạnh tranh mạnh mẽ đối với các NHTM.
1.1.2.Vai trò của ngân hàng thương mại
- Đáp ứng vốn cho nhu cầu tăng trưởng và phát triển kinh tế và duy trì cơ cấu kinh tế hợp lý.
Trong nền kinh tế luôn xuất hiện những chủ thể có các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi, họ có nhu cầu đầu tư để bảo toàn vốn và sinh lời. Tuy vậy, không phải ai cũng có cơ hội thực hiện điều đó. Các NHTM huy động những khoản vốn này dưới nhiều hình thức: nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá, tích tụ chúng và cho vay lại nền kinh tế. Như vậy, thay vì bị rút khỏi lưu thông, tồn tại dưới dạng cất trữ, tiền được chuyển thành vốn đầu tư, sinh lời. Thông qua hệ thống NHTM, các dòng vốn được hình thành và luân chuyển một cách dễ dàng, thông suốt hơn trong nền kinh tế.
Cũng do được chuyên môn hóa, NHTM có các nghiệp vụ kỹ thuật để san sẻ và phân tán rủi ro. Họ có khả năng thu thập được lượng lớn thông tin liên quan đến số lượng đông đảo các đối tượng khác nhau, có thể giảm sát các khoản tín dụng, giảm các nguy cơ về rủi ro đạo đức cũng như thông tin không cân xứng. Nhờ có nguồn vốn đáp ứng của ngân hàng mà các doanh nghiệp có điều kiện mở rộng sản xuất cả về chiều rộng và chiều sâu, mà chủ yếu là đầu tư vào công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp, tăng cường khả năng hội nhập kinh tế quốc tế.
- Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý.
NHTM về bản chất là các doanh nghiệp, kinh doanh vì mục tiêu tối đa hóa giá trị tài sản của chủ sở hữu. Họ phải lựa chọn những doanh nghiệp hay dự án có khả năng thu hồi nợ, có hiệu quả để cho vay. Nhờ quá trình sàng lọc tín dụng, vốn