Năng Lực Xây Dựng Và Vận Hành Các Công Cụ Đo Lường Rủi Ro Tín Dụng


sàng chấp nhận của NHTM đối với RRTD tiềm ẩn. Trên cơ sở đó, NHTM đề ra các chính sách thích hợp cho hoạt động tín dụng.

- Việc xác định khẩu vị RRTD của NHTM cũng là một yếu tố quan trọng gắn với năng lực hoạch định chiến lược QTRRTD của NHTM. Mỗi một NHTM có một khả năng chịu đựng rủi ro khác nhau, tùy thuộc vào quy mô vốn tự có, năng lực quản trị, cơ sở vật chất kỹ thuật và một số yếu tố nội lực khác của NHTM. Vì vậy cùng với việc hoạch định chiến lược, mỗi NHTM phải tự xác định khả năng chịu đựng rủi ro của mình, hay nói các khác là tuyên bố “khẩu vị rủi ro” để đảm bảo thiết kế các chính sách tín dụng sau này phù hợp với giới hạn chịu đựng rủi ro của NHTM. Mức độ chịu đựng rủi ro của NHTM có thể được xác định theo từng khoản vay, từng KH, nhóm KH, sản phẩm và lĩnh vực đầu tư, khu vực địa lý, dạng tài sản bảo đảm, trình độ chuyên môn của cán bộ tín dụng.

- Năng lực xây dựng các chính sách tín dụng được thể hiện thông qua hệ thống các quan điểm, chủ trương, định hướng, quy định chỉ đạo hoạt động tín dụng của NHTM do ban lãnh đạo soạn thảo, Hội đồng quản trị (HĐQT) là cấp cao nhất và cuối cùng thông qua, phù hợp với chiến lược phát triển của từng NHTM và những quy định pháp lý hiện hành. Chính sách tín dụng của NHTM phải đảm bảo mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, an toàn tài chính và hướng tới sự phát triển bền vững cho NHTM. Để thực hiện được mục tiêu an toàn (giảm thiểu rủi ro) chính sách tín dụng của các NHTM không thể thiếu được nội dung định hướng QTRRTD như đã trình bày ở nội dung QTRRTD bao gồm các chính sách định hướng phát triển tín dụng, chính sách về giới hạn/hạn chế cấp tín dụng, chính sách về điều kiện cấp tín dụng, các chính sách về TSBĐ, cơ cấu nợ và thu hồi nợ cũng như các quy định về sản phẩm tín dụng,…

Năng lực xây dựng mô hình tổ chức bộ máy QTRRTD.

- Các NHTM hiện đại theo thông lệ quốc tế có xu hướng chuyển từ cơ cấu QTRRTD không tập trung/bán tập trung sang xu hướng QTRRTD tập trung. Theo đó, hình thành một mô hình tổ chức QTRRTD thống nhất từ đứng đầu là HĐQT, thành lập ra các Ủy ban QTRR hỗ trợ cho HĐQT (tư vấn chiến lược, chính sách QTRRTD) và Ban kiểm soát (giám sát các chính sách ban hành, kiểm soát rủi ro toàn hệ thống). Quản lý cấp trung (BĐH) trực tiếp điều hành và quản lý rủi ro, phân công trực tiếp cho Phòng/ban/khối QTRRTD quản lý, giám sát các hoạt động của khối đơn vị tạo rủi ro (chi nhánh/đơn vị kinh doanh). Đội ngũ quản trị cấp cao có trách nhiệm triển khai khuôn khổ quản lý rủi ro theo nguyên tắc tách biệt giữa những người tạo ra rủi ro và những người phê duyệt và giám sát rủi ro.


- Mô hình tổ chức bộ máy QTRRTD phải xây dựng các tuyến quyền hạn, phân quyền cụ thể trách nhiệm của từng phân cấp quản trị từ HĐQT, Ủy ban QTRR, Ban kiểm soát, Ban điều hành, Khối QTRR, chi nhánh. Cơ cấu tổ chức phải đưa ra khuôn khổ rủi ro được phân quyền cho các bộ phận kinh doanh/ bộ phận QTRRTD trong phạm vi rõ ràng của HĐQT. Trong mô hình tổ chức QTRRTD tập trung: chức năng QTRRTD trực thuộc HĐQT, Ủy ban QTRRTD, BĐH, tập trung tại Hội sở chính của NHTM. Để có thể thực hiện được tốt quy trình QTRRTD thì mô hình này đặt ra những yêu cầu cao về khả năng xây dựng chính sách, chiến lược, quy trình QTRRTD, xây dựng được khẩu vị rủi to thống nhất, có hệ thống hỗ trợ quản lý rủi ro tốt (LOS, TSBĐ, hệ thống xếp hạng tín dụng, cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin KH). Còn đối với mô hình tổ chức QTRRTD phân tán thì chi nhánh/đơn vị kinh doanh là bộ phận tạo rủi ro và đồng thời quản lý rủi ro, đây là mô hình áp dụng tương đối phổ biến tại thị trường tài chính các nước đang phát triển. Để mô hình tổ chức bán tập trung hoạt động hiệu quả thì ngoài có bộ công cụ đo lường rủi ro chính xác, thống nhất, cán bộ máy kiểm soát, kiểm toán nội bộ tốt, độc lập, phân cấp trách nhiệm cụ thể. Ngoài ra, danh mục tín dụng, giới hạn rủi ro, hạn mức cấp/quản lý tín dụng phù hợp, và đặc biệt là nhân tố nguồn nhân lực với vấn đề liên quan đến rủi ro đạo đức.

- Mô hình tổ chức QTRRTD phải xây dựng được các tuyến báo cáo từ cấp thấp (Chi nhánh) đến cấp cao nhất (HĐQT), đảm bảo công tác kiểm soát, kiểm toán nội bộ tương xứng với bản chất và quy mô hoạt động tín dụng ngân hàng; định kỳ đánh giá độc lập và hiệu quả của cơ sở hạ tầng kiểm soát và QLRRTD.

- Như vậy, khi xây dựng mô hình QTRRTD, thông lệ quốc tế và chuẩn mực Basel II có một số điểm cơ bản: (i) Phân tách bộ máy cấp tín dụng theo các bộ phận tiếp thị, bộ phận phân tích tín dụng và bộ phận phê duyệt tín dụng cũng như trách nhiệm rõ ràng của các bộ phận tham gia; (ii) Nâng cao năng lực của cán bộ quản lý RRTD; (iii) Xây dựng một hệ thống quản lý, cập nhật thông tin hiệu quả để duy trì một quá trình đo lường, theo dõi tín dụng thích hợp, đáp ứng yêu cầu thẩm định và quản lý RRTD. Lựa chọn mô hình QTRRTD tập trung/bán tập trung phụ thuộc vào chính sách, chiến lược, thị trường mục tiêu, quản lý danh mục tín dụng, quy mô, vố, mức độ phức tạp trong các giao dịch, nói cách khác mô hình tổ chức QTRRTD xây dựng căn cứ trên khả năng, điều kiện cụ thể của từng NHTM.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 265 trang tài liệu này.

Năng lực quản trị điều hành trong nghiên cứu này được đánh giá mức độ quan trọng thông qua các tiêu chí: (i) Thiết lập chiến lược, quy trình, chính sách TD, mô hình tổ chức bộ máy QTRRTD nhất quán, phù hợp, rõ ràng (ii) Thực hiện tốt các chiến


lược, quy trình, chính sách TD, mô hình tổ chức bộ máy QTRRTD (iii) Giám sát và cải tiến chiến lược, quy trình, chính sách TD, mô hình tổ chức bộ máy QTRRTD.

1.2.3.2. Năng lực xây dựng và vận hành các công cụ đo lường rủi ro tín dụng

Năng lực đo lường RRTD là khả năng lượng hóa mức độ các rủi ro cũng như biết được xác suất xảy ra rủi ro mức độ tổn thất khi rủi ro xảy ra để xem xét khả năng chấp nhận nó của NHTM. Đây là một trong số những chỉ tiêu định lượng được về năng lực QTRRTD và cũng là cơ sở để NHTM đưa ra quyết định cho vay cũng như xây dựng biện pháp ứng phó phù hợp, nhanh chóng với RRTD khi tình trạng này xảy ra. Năng lực đo lường RRTD được thể hiện thông qua hiệu quả của các hệ thống xếp hạng tín dụng (xếp hạng KH), hệ thống phân loại nợ (xếp hạng khoản tín dụng), xây dựng các hệ thống xếp hạng để tính toán các chỉ số PD, LGD, EAD theo Basel II, dự báo được tổn thất dự kiến (EL) và tổn thất không dự kiến (UL) theo phương pháp tiếp cận tiêu chuẩn (SA), phương pháp tiếp cận nội bộ cơ bản (FIRB) hay tiếp cận nội bộ nâng cao (AIRB) phù hợp. Đồng thời có công cụ, phương pháp kiểm định các mô hình tính toán (Gini, AR, ROC, CAP) và kiểm tra sức chịu đựng (stress test) trong các tình huống kinh tế có thể xảy.

Tiêu chí để đo lường mức độ ảnh hưởng của năng lực xây dựng và vận hành các công cụ đo lường RRTD tới năng lực QTRRTD là (i) Thiết lập các công cụ đo lường RRTD (ii) Vận hành các công cụ đo lường RRTD (iii) Giám sát và cải tiến các công cụ đo lường RRTD.

1.2.3.3. Năng lực kiểm soát rủi ro tín dụng

KSRRTD là khâu trọng tâm nhất trong công tác QTRRTD của một NHTM, đây chính trọng tâm của quy trình RRTD.Chính vì vậy, năng lực KSRRTD có ảnh hưởng trọng yếu tới mục tiêu và hiệu quả của công tác QTRRTD. KSRRTD là một hệ thống những công cụ, chính sách, tiêu chuẩn và biện pháp nhằm ngăn ngừa RRTD trong một NHTM: bộ máy KSRRTD, các giới hạn, hạn mức tín dụng, các quy định về đảm bảo tiền vay.

Năng lực KSRRTD thể hiện thông qua việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống KSRRTD và năng lực tuân thủ các giới hạn an toàn hoạt động TD.

Năng lực xây dựng và hoàn thiện hệ thống KSRRTD:

Một trong những hệ thống kiểm soát rủi ro nói tín dụng được một số NHTM áp dụng thành công hiện nay và được quốc tế khuyến nghị áp dụng rộng rãi mà tác giả lựa chọn trình bày trong luận án là mô hình 3 tuyến phòng thủ QTRRTD.


Hệ thống quản trị rủi ro NHTM nên áp dụng là mô hình 3 tuyến phòng thủ. Với mô hình 3 tuyến phòng thủ và quản trị rủi ro toàn ngân hàng là tất cả thành viên trong hệ thống đều phải tham gia quá trình quản trị rủi ro. Do vậy, mô hình này đảm bảo mọi rủi ro trong mỗi tác vụ của NHTM được nhận diện, kiểm soát và giảm thiểu.

Mô hình 3 tuyến phòng thủ (three lines of defense): Mô hình 3 tuyến phòng thủ (three lines of defense) được đề cập nhiều trong tài liệu của COSO, IIA (Institute of Internal Auditors) và BIS (Bank for International Settlements), Ủy ban Basel.

Hình 1.8: Mô hình ba tuyến phòng thủ


Nguồn 61 Tuyến phòng thủ thứ nhất Quản lý rủi ro tại các đơn vị trực 1

(Nguồn: [61])

Tuyến phòng thủ thứ nhất: Quản lý rủi ro tại các đơn vị trực tiếp kinh doanh như các chi nhánh, các khối kinh doanh, các chuyên viên KH và các đơn vị vận hành tại hội sở. Tuyến phòng thủ đầu tiên là để bảo vệ ngân hàng. Tuyến này có chức năng tiếp xúc KH và xử lý giao dịch có vai trò người sở hữu rủi ro (risk owner) trong mảng việc mình phụ trách. Nhiệm vụ chính của các đơn vị này là xác định, đánh giá, ngăn ngừa, báo cáo và theo dõi các rủi ro phát sinh trong hoạt động kinh doanh (cho vay) và các quy trình vận hành khác; bảo vệ lợi ích của đơn vị thông qua việc tự đánh giá rủi ro và kiểm soát tính hiệu quả của từng đơn vị.

Tuyến phòng thủ thứ hai: Khối quản trị rủi ro và khối tuân thủ, quản trị rủi ro hoạt động và pháp chế. Tuyến phòng thủ này có chức năng giám sát rủi ro, có tính độc lập tương đối với KH và giao dịch, hỗ trợ tư vấn cho tuyến phòng thủ thứ nhất trong việc quản lý các chốt kiểm soát để ứng phó các rủi ro mình sở hữu.


Tuyến phòng thủ thứ hai sẽ thiết lập các chính sách, khẩu vị rủi ro, quy trình, phê duyệt sản phẩm, kiểm soát và thành lập ngay các hệ thống cảnh báo sớm, xây dựng kế hoạch thu nợ và quy trình hoạt động, đảm bảo nhiệm vụ cụ thể của từng cá nhân tham gia xuyên suốt vào quy trình tín dụng,…

Tuyến này có rất nhiều nhiệm vụ, trong đó quan trọng hơn cả là việc độc lập đánh giá và kiểm soát (kiểm tra và cân đối) tính hiệu quả của hệ thống ở tuyến phòng thủ thứ nhất; quản lý rủi ro chính thông qua việc thiết lập khẩu vị rủi ro/chính sách cho vay, xây dựng quy trình/hướng dẫn tín dụng và cho vay, theo dõi, cảnh báo sớm, quản trị danh mục…; giám sát các chương trình kiểm soát nội bộ, tuân thủ…

Tuyến phòng thủ thứ ba: Bộ phận kiểm toán nội bộ. Tuyến này trực thuộc Ban kiểm soát và không thuộc Ban điều hành của NHTM, nên việc đánh giá 2 tuyến phòng thủ trước và các rủi ro có thể xảy ra được thực hiện độc lập và khách quan. Tuyến này sẽ giúp cho Ban Kiểm soát và Hội đồng quản trị về hiệu quả của tổ chức xuyên suốt hoạt động của các bộ phận kinh doanh, vận hành, quản trị rủi ro…

Là ngân hàng kinh doanh tiền gửi, các NHTM quản lý, giám sát một lượng tiền và các giấy tờ có giá trị lớn. Các loại tài sản này thường đòi hỏi phải có những biện pháp bảo vệ an ninh chặt chẽ cả khi bảo quản cất giữ, vận chuyển cũng như chuyển giao, đồng thời cũng biến NHTM thành nơi nhậy cảm với các vấn đề biển thủ, tham ô, gian lận và vượt thẩm quyền. Các mục tiêu về tính tuân thủ quy định pháp luật, bảo vệ tài sản và cung cấp thông tin đáng tin cậy có thể dễ dàng bị vi phạm. Vì vậy, các NHTM thường phải thiết lập một hệ thống kiểm soát nội bộ nghiêm khắc, chặt chẽ với việc xây dựng và triển khai các loại kiểm soát và nguyên tắc kiểm soát phù hợp. Kiểm toán nội bộ được sử dụng như một công cụ giúp nhà quản trị ngân hàng thực hiện các mục tiêu kiểm soát nội bộ.

Tuyến phòng thủ thứ ba, với chức năng kiểm toán nội bộ độc lập với chức năng hằng ngày của NHTM và có thể tiếp cận với tất cả các hoạt động ngân hàng thực hiện, bao gồm cả hoạt động ở chi nhánh, sở giao dịch và công ty con. Do vậy, phạm vi hoạt động của kiểm toán nội bộ rất rộng và đa dạng, cho phép kiểm toán viên có thể thu thập bằng chứng đủ để đưa ra ý kiến nhận xét. Mặt khác, thông qua việc báo cáo trực tiếp Hội đồng quản trị, Ủy ban kiểm toán, Ban điều hành, sẽ cho phép kiểm toán nội bộ cung cấp thông tin khách quan không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ cấp quản lý nào.

Ủy ban Basel khuyến nghị hội đồng quản trị các NHTM thành lập Ủy ban kiểm toán nội bộ để hỗ trợ hội đồng quản trị trong việc giám sát quá trình lập báo cáo tài chính và hệ thống kiểm soát nội bộ. Ủy ban kiểm toán là nơi liên lạc trực tiếp của bộ


phận kiểm toán nội bộ ngân hàng. Bộ phận kiểm toán nội bộ được đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của bộ phận lãnh đạo cao nhất của NHTM là hội đồng quản tri hoặc ban điều hành. Với mô hình tổ chức này, đảm bảo cuộc kiểm toán nội bộ được thực hiên nghiêm túc, đúng đắn và độc lập.

Tuyến phòng thủ thứ ba, được tổ chức đầy đủ và toàn diện về nội dung, phương pháp, quy trình và kiểm soát chất lượng nhằm giúp cho hệ thống kiểm soát nội bộ ngân hàng có thể nhận biết, đánh giá và giám sát các loại rủi ro kịp thời; báo cáo các cấp quản lý thích hợp và đưa ra giải pháp để khắc phục những hạn chế của hệ thống kiểm soát nội bộ NHTM.

Mục tiêu đặt ra là phát huy vai trò kiểm soát trước tại các đơn vị tuyến đầu (đơn vị kinh doanh và tác nghiệp trực tiếp) cũng như vai trò giám sát từ xa, kiểm tra tại chỗ của các đơn vị có chức năng kiểm tra, quản trị rủi ro nhằm phát hiện sớm những rủi ro trọng yếu, giảm thiểu tổn thất cho NHTM. Do đó, việc ứng dụng mô hình 3 tuyến phòng thủ cần được thực hiện linh hoạt, phù hợp với những thay đổi về tổ chức mô hình khối cũng như thống nhất lại, làm rõ một số chức năng, nhiệm vụ bị chồng chéo, trùng lắp hoặc bỏ sót.

Mô hình quản trị phòng thủ 3 tuyến tại NHTM là chuẩn mực an toàn giúp NHTM tuân thủ và dần tiệm cận với các chuẩn mực quản trị tiên tiến trên thế giới, đặc biệt, tạo nên văn hóa ý thức và kiểm soát rủi ro trong mỗi nhân viên của NHTM. Mỗi cá nhân, từ chuyên viên KH tới nhân viên các khối hỗ trợ, đều phải tuân thủ quy định, quy trình và ý thức được trách nhiệm đánh giá, phát hiện sớm rủi ro và tìm cách ngăn ngừa các rủi ro phát sinh. Tức là, quản trị rủi ro được thực hiện bởi cả hệ thống, chứ không phải là trách nhiệm riêng của khối quản trị rủi ro.

Năng lực tuân thủ các giới hạn an toàn

- Về năng lực tuân thủ, hiện nay, xu hướng tự do hóa tài chính đã diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, và Việt Nam cũng không nằm ngoài làn sóng đó. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế sâu và rộng cùng mở cửa thị trường dịch vụ tài chính, việc củng cố và hoàn thiện hành lang pháp lý liên quan tới hoạt động ngân hàng, cũng như vấn đề cơ chế giám sát hoạt động NHTM nhằm đảm bảo tính tuân thủ là hết sức cần thiết trong việc KSRRTD, giữ vững an toàn trong hoạt động cho vay của các TCTD nói riêng, và hiệu quả hoạt động NHTM cũng như an ninh tài chính quốc gia nói chung.

Chính vì vậy, pháp luật ngân hàng quy định những giới hạn bảo đảm cần thiết duy trì an toàn cho hoạt động cho vay của của các TCTD, góp phần KSRRTD. Đồng


thời thông qua các quy định của pháp luật về các biện pháp bảo đảm an toàn thể hiện sự quản lý của nhà nước đối với hoạt động của các TCTD.

Tính tuân thủ trong KSRRTD thể hiện sự chấp hành các quy định pháp luật về hoạt động của các TCTD, các nguyên tắc cho vay, những giới hạn và hạn chế tín dụng mà tác giả đã đề cập trong nội dung QTRRTD

Các tiêu chí để đánh giá mức độ ảnh hưởng của Năng lực KSRRTD tới Năng lực QTRRTD là (i) Thiết lập mô hình phòng thủ 3 tuyến và các giới hạn an toàn tín dụng và quy định pháp luật (ii) Vận hành mô hình phòng thủ 3 tuyến trong KSRRTD và ứng dụng các giới hạn an toàn tín dụng và quy định pháp luật (iii) Giám sát và cải tiến mô hình phòng thủ 3 tuyến và các giới hạn an toàn tín dụng và quy định pháp luật

(iv) tính độc lập của các khâu trong mô hình phòng thủ 3 tuyến.

1.2.3.4. Năng lực xử lý rủi ro tín dụng

RRTD mang tính tất yếu và tồn tại song hành với hoạt động kinh doanh của NHTM, vì những nguyên nhân khách quan hay chủ quan, RRTD vẫn có thể phát sinh trong các khâu của hoạt động tín dụng. Năng lực xử lý RRTD được hiểu là khả năng ứng phó của NHTM trong trường hợp RRTD phát sinh nhằm đảm bảo giảm thiểu và bù đắp thiệt hại gây ra cho NHTM. Năng lực xử lý RRTD được thể hiện ở việc xử lý nợ bằng quỹ dự phòng rủi ro được trích lập trên mức độ rủi ro của các nhóm nợ đã phân loại và việc xử lý tổn thất bằng nguồn vốn tự có.

- Việc phân loại các khoản nợ của NH sẽ giúp NH có điều kiện để theo dõi và đánh giá cấp độ rủi ro của từng món đi vay, từng KH vay để từ đó có các giải pháp kịp thời. Việc phân loại nợ sẽ là cơ sở cho việc đưa ra mức độ giám sát và mức trích lập dự phòng rủi ro cho từng món vay.

- Về việc trích lập dự phòng rủi ro, tỷ lệ trích lập quỹ dự phòng rủi ro được quy định ở mỗi nước khác nhau. Tỷ lệ này thường được đưa ra trên cơ sở con số thống kê hiện tại về mức độ rủi ro các NHTM. Ở những nước có hệ thống luật pháp cho việc quản lý các khoản nợ phát triển áp dụng tỷ lệ trích lập thấp hơn. Điển hình như ở Mỹ thì quy định mức trích lập khoảng 10% đối với các khoản tín dụng không đủ tiêu chuẩn, 50% đối với các khoản nợ khó đòi và 100% đối với những khoản tín dụng mất mát, thua lỗ. Còn ở những nước đang phát triển như Thái Lan thì mức độ trích khoảng 20 - 25% đối với khoản nợ không đủ tiêu chuẩn. 50 -75% đối với khoản nợ khó đòi và 100% đối với khoản nợ mất mát [2]

- Trong trường hợp rủi ro ngoài dự kiến xảy ra đối với NHTM, quỹ dự phòng tổn thất không đủ để bù đắp rủi ro, NHTM phải trích từ chi phí hoặc lợi nhuận của


mình để tài trợ rủi ro. Nếu lợi nhuận không đủ thì ngân hàng phải dùng chính vốn tự có của mình để bù đắp tổn thất của RRTD. Phương thức xử lý rủi ro này sẽ làm ảnh hưởng đến quy mô hoạt động của NHTM.

Mức độ ảnh hưởng của năng lực xử lý RRTD tới năng lực QTRRTD được thể hiện qua các tiêu chí (i) thiết lập hệ thống phân loại nợ, quỹ dự phòng RR (ii) Thực hiện công tác phân loại nợ và trích lập dự phòng RR (iii) Giám sát và cải tiến hệ thống phân loại nợ và quỹ dự phòng RR

1.2.3.5. Năng lực nguồn nhân lực

Nguồn nhân lực con người là hạt nhân trong mọi hoạt động kinh doanh của NHTM nói chung, và trong hoạt động tín dụng nói riêng. Hệ thống NHTM ngày càng hiện đại, nghiệp vụ tín dụng ngày càng phức tạp đòi hỏi nhân sự có trình độ, năng lực, khả năng tư duy, độ nhạy cảm và đạo đức nghề nghiệp, đây là những nhân tố quyết định đến hiệu quả nâng cao năng lực QTRRTD. Sự bố trí nhân sự thiếu hợp lý về khối lượng quản lý KH, năng lực quản lý từng khoản tín dụng, danh mục tín dụng đều dẫn tới suy giảm chất lượng QTRRTD, ảnh hưởng đến năng lực QTRRTD của NHTM [2].

Chính vì vậy, năng lực đội ngũ cán bộ NHTM để đáp ứng được năng lực điều hành, năng lực vận hành các công cụ đo lường, năng lực kiểm soát và xử lý RRTD là một nhân tố tác động đến năng lực QTRRTD. Muốn vận hành được các quy trình và công cụ QTRRTD, yếu tố nguồn nhân lực phải chuyên nghiệp, thông qua quá trình học hỏi, đào tạo lâu dài.

Do đó, công tác đào tạo cán bộ là vấn đề cần được các NHTM chú trọng hàng đầu. Theo nghiên cứu của (Cherrington 1995 [58]), đào tạo liên quan đến việc cung cấp cho cán bộ đạt được các kỹ năng kiến thức cũng như phương thức để thực hiện các công việc mà cán bộ đảm trách. Đào tạo cũng cung cấp cho cán bộ/người lao động các cách thức để có thể áp dụng trong các tình huống khác nhau. Theo Deming (1986) [64], điều quan trọng là đào tạo đúng các nội dung mà công việc họ đang phải đảm nhiệm và có hướng đào tạo để phát triển sự nghiệp của họ. Cherrington cũng cho rằng, đào tạo phải có phương pháp tiếp cận tốt phân tích kỹ lưỡng các khoảng trống năng lực của cán bộ để từ đó xây dựng và thiết kế chương trình đào tạo hiệu quả nhằm tăng hiệu suất hoạt động của cán bộ tại vị trí họ đảm nhiệm. Đối với QLRRTD, đào tạo chiếm vai trò rất quan trọng để nâng cao chất lượng QLRRTD.

Ngoài ra, hiện nay, các NHTM đã và đang xây dựng các tiêu chí đánh giá năng lực cán bộ NHTM nói chung và cán bộ trong hoạt động tín dụng, QTRRTD nói riêng.

Xem tất cả 265 trang.

Ngày đăng: 12/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí