X3: Tỷ số “Lợi nhuận trước thuế và lãi/tổng tài sản”
X4: Tỷ số “Trị giá cổ phiếu/ giá trị ghi sổ của nợ dài hạn” X5: Tỷ số “ Doanh thu/tổng tài sản”
Trị số Z càng cao, thì người vay có xác suất với nợ càng thấp. Như vậy, khi trị số Z thấp hoặc là một số âm là một căn cứ để xếp khách hàng vào nhóm có nguy cơ vỡ nợ cao.
Z < 1,8: Khách hàng có khả năng rủi ro cao
1,8 < Z < 3: Không xác định được
Z > 3: Khách hàng không có khả năng vỡ nợ
Bất kỳ công ty nào có điểm số Z < 1,81 phải được xếp vào nhóm có nguy cơ rủi ro tín dụng cao.
Từ một chỉ số Z ban đầu, Altman phát triển thêm Z' và Z" để có thể áp dụng theo từng loại hình của doanh nghiệp.
Mô hình xếp hạng của Moody và Standard & Poor
Có thể bạn quan tâm!
- Nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế - 2
- Lý Luận Cơ Bản Về Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Và Năng Lực Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Ngân Hàng Thương Mại;
- Nguyên Tắc Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng
- Khái Niệm Về Năng Lực Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng
- Hệ Thống Các Quy Định, Quy Trình, Thủ Tục Và Chính Sách Tín Dụng
- Kinh Nghiệm Của Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Công Thương Việt Nam
Xem toàn bộ 192 trang tài liệu này.
Phương pháp xếp hạng tín nhiệm của Moody tập trung vào bốn lĩnh vực chính là đánh giá môi trường ngành, đánh giá tình hình tài chính, đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh và đánh già khả năng quản trị doanh nghiệp chú trọng vào quản trị rủi ro và kiểm soát nội bộ.
Quy trình đánh giá của Moody‟s bao gồm các bước:
- Thu thập thông tin cho đến khi đầy đủ để đánh giá rủi ro của bên nắm giữ nợ hay mua chứng khoán, bao gồm cả việc thảo luận với bên đi vay;
- Đưa ra kết luận trước hội đồng xếp hạng;
- Theo dõi liên tục để quyết định xem có cần thay đổi mức xếp hạng hay không;
- Thông báo quan điểm xếp hạng ra thị trường.
Bảng xếp hạng tín nhiệm của Moody‟s đối với công cụ nợ dài hạn của doanh nghiệp cao nhất từ AAA và thấp dần tới D ứng với mức chất lượng cao nhất và mức chất lượng kém nhất tương ứng với việc phá sản hoàn toàn.
Đo lường rủi ro khoản vay dựa trên mức tổn thất ước tính được (Expected loss): một phương pháp khác được sử dụng trong việc lượng hóa rủi ro xảy ra là phương pháp đánh giá dựa trên hệ thống xếp hạng nội bộ. Để ước lượng mức vốn tối thiểu để đối mặt với rủi ro phương pháp này căn cứ vào các yếu tố định tính và định lượng. Theo phương pháp này, các ngân hàng có thể sử dụng mô hình để ước lượng xác suất không trả được nợ của khách hàng (Probability of Default -PD) dựa trên kết quả của công tác xếp hạng tín dụng nội bộ. Phương pháp đánh giá dựa trên xếp hạng tín dụng nội bộ gồm hai phương pháp để các ngân hàng lựa chọn tùy thuộc vào đặc điểm, quy mô, tổ chức và nguồn lực của mình bao gồm (a) Phương pháp đánh giá dựa trên xếp hạng nội bộ cơ bản và (b) phương pháp đánh giá dựa trên xếp hạng nội bộ cao cấp. Đồng thời, phương pháp này còn đưa ra khái niệm tổn thất mất vốn do khách hàng không trả được nợ. Theo hiệp ước Basel II thì tổn thất tín dụng của một danh mục có thể phân chia thành hai loại là Khoản tổn thất dự tính được (Expected loss) và khoản tổn thất không dự tính được (Unexpected loss). Trong đó, Tổn thất dự tính được (EL) là mức tổn thất trung bình được tính toán qua các số liệu thống kê trong quá khứ vì ngân hàng không biết chính xác 100% khách hàng nào là khách hàng xấu và khoản vay nào không thể trả được trong 12 tháng tới. Khi áp dụng phương pháp này, các ngân hàng muốn xác định mức tổn thất dự tính được (EL) thì cần phải xác định các nhân tố sau: PD – Xác suất khách hàng không trả nợ được (Probability of Default); Tỷ trọng tổn thất ước tính – LGD (Loss Given Default) và tổng dư nợ của khách hàng tại thời điểm khách hàng không trả nợ được – EAD (Exposure At Default).
Tổn thất cho mỗi kỳ hạn có thể ước tính được dựa trên công thức: EL = PD x EAD x LGD
Trong đó:
(1) PD - xác suất không trả được nợ: cơ sở của xác suất này là các số liệu về các khoản nợ trong quá khứ của khách hàng, gồm các khoản nợ đã trả, khoản nợ trong hạn và khoản nợ không thu hồi được. Theo yêu cầu của Basel II, để tính toán được nợ trong vòng một năm của khách hàng, ngân hàng phải căn cứ vào số liệu dư nợ của khách hàng trong vòng ít nhất là 5 năm trước đó.
(2) Tổng dư nợ của khách hàng tại thời điểm khách hàng không trả được nợ (EAD) được xác định tương đối đơn giản đối với các khản vay có kỳ hạn. Tuy nhiên đối với khoản vay không kỳ hạn thì khá phức tạp. Theo thống kê của ủy ban Basel, tại thời điểm không trả được nợ, khách hàng thường có xu hướng rút vốn vay tới mức gần xấp xỉ hạn mức được cấp. Do đó, ủy ban Basel II yêu cầu tính EAD như sau:
EAD = Dư nợ bình quân + LEQ x Hạn mức tín dụng chưa sử dụng bình quân
Trong đó, LEQ (Loan Equivalent Exposure) là tỷ trọng phần vốn chưa sử dụng có nhiều khả năng sẽ được khách hàng rút thêm tại thời điểm không trả được nợ. “LEQ x Hạn mức tín dụng chưa sử dụng bình quân” chính là phần dư nợ khách hàng rút thêm tại thời điểm không trả được nợ ngoài mức dư nợ bình quân.
(3) LGD: tỷ trọng tổn thất ước tính - đây là tỷ trọng phần vốn bị tổn thất trên tổng dư nợ tại thời điểm khách hàng không trả được nợ. LGD không chỉ bao gồm tổn thất về khoản vay mà còn bao gồm các tổn thất khác phát sinh khi khách hàng không trả được nợ, đó là lãi suất đến hạn nhưng không
được thanh toán và các chi phí hành chính có thể phát sinh như: chi phí xử lý tài sản thế chấp, các chi phí cho dịch vụ pháp lý và một số chi phí liên quan.
Tỷ trọng tổng thất ước tính có thể tính toán theo công thức sau đây:
LGD = (EAD - Số tiền có thể thu hồi)/EAD.
c. Phòng ngừa rủi ro xảy ra
Rủi ro tín dụng ngân hàng thương mại là một yếu tố tất yếu khách quan, do vậy quản trị rủi ro tín dụng ngân hàng thương mại không thể né tránh rủi ro mà chỉ có thể hạn chế thấp nhất những tổn thất có thể xẩy ra khi các khoản tín dụng xẩy ra rủi ro. Từ việc đã lượng hóa được mức độ rủi ro cũng như việc xác định được nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng ngân hàng thương mại thực hiện các biện pháp kiểm soát rủi ro thích hợp.
Thứ nhất, thực hiện công tác thẩm định và phân tích tín dụng
Các ngân hàng thương mại đều phải xây dựng cho mình quy trình cấp tín dụng chặt chẽ trong đó bao hàm khâu thẩm định và phân tích tín dụng. Trước khi cấp tín dụng cho khách hàng, ngân hàng phải tiến hành thẩm định và phân tích khách hàng trên nhiều khía cạnh như khả năng thanh toán, tính hiệu quả của phương án đầu tư,… đồng thời cần phân tích chính sách tín dụng của mình để từ đó đưa ra phương án cấp tín dụng hợp lý, giảm thiểu rủi ro tín dụng có thể xảy ra.
Thứ hai, Sử dụng tài sản đảm bảo chắc chắn trong hoạt động cấp tín dụng
Để đảm bảo, hạn chế tổn thất cho ngân hàng khi rủi ro xảy ra, việc sử dụng tài sản đảm bảo trong các giao dịch cho vay giữa ngân hàng và khách hàng đã khá phổ biến. Các hình thức cho vay có đảm bảo bao gồm:
- Cho vay đảm bảo bằng tài sản cầm cố;
- Cho vay đảm bảo bằng tài sản thế chấp;
- Đảm bảo tiền vay theo phương thức bảo lãnh;
- Đảm bảo tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay.
Để đảm bảo mức độ chắc chắn của tài sản đảm bảo; khi thực hiện cho vay có đảm bảo thì ngân hàng phải thực hiện đánh giá tài sản đảm bảo, căn cứ vào đó để xác định hạn mức tín dụng phù hợp.
Thứ ba, thực hiện công tác thu thập thông tin
Việc thu thập thông tin cần được thực hiện một cách nghiêm túc từ trước khi ra quyết định cho khách hàng tới khi khách hàng thanh toán hết các khoản vay. Các giai đoạn thu thập thông tin có thể chia thành:
Thu thập thông tin nhằm ra quyết định cấp tín dụng: trong giai đoạn này, ngân hàng cần thu thập đầy đủ các thông tin về kinh tế vĩ mô cũng như vi mô. Cụ thể, ngân hàng cần thu thập thông tin về đơn vị như tình hình tài chính, khả năng thanh toán, cũng như hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh; các thông tin về quy mô, kế hoạch sản xuất kinh doanh, lĩnh vực – ngành nghề kinh doanh, uy tín của ban điều hành, chủ sở hữu doanh nghiệp. Bên cạnh các thông tin này, các ngân hàng cũng cần thu thập các thông tin kinh tế vĩ mô như tình hình nền kinh tế nói chung và tình hình, đặc điểm và xu hướng phát triển của ngành nghề mà đơn vị hoạt động, các chính sách của nhà nước đối với các ngành nghề này cũng như các quy định pháp lý có liên quan,… Các thông tin trên là căn cứ, cơ sở để ngân hàng đưa ra quyết định có cấp tín dụng hay không? Hạn mức tín dụng và thời hạn tín dụng.
Sau khi thực hiện cấp tín dụng, ngân hàng phải thường xuyên theo dõi việc sử dụng và hiệu quả của việc sử dụng vốn vay để có phương án thu hồi vốn vay phù hợp, hạn chế tổn thất xảy ra khi đơn vị gặp phải khó khăn, rủi ro đột xuất.
Thứ tư, thực hiện việc giám sát tín dụng và xếp hạng khách hàng Các ngân hàng thường xuyên tiến hành việc đánh giá, xếp hạng khách hàng cũng như giám sát các khoản tín dụng đã cấp cho khách hàng. Việc xếp
hạng khách hàng giúp doanh nghiệp đánh giá trước các rủi ro có thể xảy ra nhằm có các biện pháp ngăn ngừa, dự phòng thích hợp. Trên cơ sở đó hạn chế tổn thất khi rủi ro xảy ra.
Thứ năm, thực hiện các biện pháp nhằm phân tán rủi ro
Phân tán rủi ro tín dụng là việc thực hiện đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng, đa dạng đối tượng khách hàng cũng như các ngành, lĩnh vực nhằm giúp ngân hàng hạn chế được rủi ro tín dụng xảy ra. Các phương pháp phân tán rủi ro cụ thể như sau:
- Đa dạng hóa các hình thức tín dụng;
- Đa dạng hóa các đối tượng khách hàng;
- Đa dạng hóa việc cấp tín dụng cho các ngành, lĩnh vực khác nhau;
- Liên kết đầu tư (Cho vay đồng tài trợ);
Thứ sáu, sử dụng các nghiệp vụ phái sinh
Sử dụng các nghiệp vụ phái sinh thông qua các hợp đồng quyền chọn tín dụng (Credit options) và hợp đồng trao đổi tín dụng (Credit swap). Thực hiện các hợp đồng quyền chọn tín dụng là một công cụ bảo vệ ngân hàng trước những tổn thất trong trị giá tài sản tín dụng, giúp bù đắp mức chi phí vay vốn cao hơn khi chất lượng tín dụng của ngân hàng giảm sút. Các hợp đồng này đồng thời giúp ngân hàng giảm thiểu chi phí vay vốn gia tăng do chất lượng tín dụng của ngân hàng giảm sút.
d. Xử lý rủi ro xảy ra
Sau khi xem xét các dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng có khả năng xảy ra, ngân hàng cần thực hiện các bước công việc gồm có:
Thứ nhất, kiểm tra hồ sơ khoản vay có vấn đề
Ngay khi phát hiện ra những dấu hiệu rủi ro tín dụng có khả năng xảy ra, Ngân hàng phải lập tức tổ chức thực hiện những bước công việc sau:
- Kiểm tra hồ hơ khoản vay để xem xét xem hồ sơ có đầy đủ, có thể đưa ra như là bằng chứng tại tòa khi phát sinh khiếu kiện hay không? các giấy tờ liên quan tới TSBĐ có đầy đủ, hợp lệ không;…
- Tiến hành định giá lại TSBĐ nhằm xác định giá trị hiện tại của TSBĐ.
- Xem xét việc giảm Hạn mức tín dụng/dư nợ được duyệt mà khách hàng chưa dùng đến nhằm giảm mức độ rủi ro.
- Tìm hiểu lại gia đình của người vay (khách hàng cá nhân) để chắc chắn rằng những người tạo thu nhập chính và chủ sở hữu tài sản đều được ràng buộc trong những hợp đồng bảo đảm tiền vay đã ký với ngân hàng.
- Xem xét bổ sung tài sản bảo đảm.
Thứ hai, gặp gỡ và thảo luận với khách hàng
Sau khi tiến hành kiểm tra các hồ sơ tín dụng có vấn đề, ngân hàng cần cử đại diện gặp gỡ, trao đổi với khách hàng, cụ thể:
- Đại diện ngân hàng thông báo cho khách hàng một số vấn đề liên quan như bản chất và nguyên nhân của vấn đề mà ngân hàng đang xem xét có thể ảnh hưởng tới mức độ an toàn về hạn mức rủi ro của ngân hàng; khách hàng cần hợp tác với ngân hàng để khắc phục những phát sinh của khách hàng; đàm phán yêu cầu khách hàng phải có kế hoạch và biện pháp cụ thể bằng văn bản để khắc phục tình hình; đơn vị kinh doanh có thể yêu cầu khách hàng phải thực hiện một số biện pháp cần thiết để thực hiện HĐTD đã ký; yêu cầu giảm nợ tương ứng hoặc yêu cầu khách hàng bổ sung tài sản bảo đảm vốn vay đối với số nợ không có khả năng thanh toán;
- Yêu cầu khách hàng cung cấp bổ sung một số thông tin (nếu cần) nhằm cùng khách hàng tìm ra một kế hoạch hành động phù hợp.
Thứ ba, lập kế hoạch hành động
- Chuẩn bị kế hoạch: căn cứ tình hình hiện tại và dấu hiệu cụ thể của khách hàng, Ngân hàng xây dựng một kế hoạch hành động cụ thể.
- Nội dung chính của kế hoạch hành động: xác định rõ các vấn đề tồn tại hoặc các phát sinh mới của khoản vay; các giải pháp xử lý vấn đề này; cách thức thực hiện giải pháp này; tiến độ thực hiện các giải pháp; ngân hàng khi trình kế hoạch phải giải trình về tính hợp lý của kế hoạch hành động.
- Trình phê duyệt: ngân hàng phải trình kế hoạch để cấp có thẩm quyền phê duyệtvà chỉ đạo thực hiện kế hoạch.
Thứ tư, thực hiện kế hoạch
Gặp gỡ khách hàng
- Ngân hàng tiến hành gặp gỡ khách hàng ngay khi kế hoạch được phê duyệt. Trong trường hợp này kế hoạch phải được coi như một thỏa ước với khách hàng vay, trong đó ghi rõ các điều khoản và điều kiện liên quan đến việc tiếp tục khoản vay nhằm tránh những hiểu lầm giữa hai bên.
- Tùy theo đối tượng, đặc tính của sản phẩm bán ra của khách hàng mà đưa ra cách thức theo dõi và quản lý các điều khoản trong kế hoạch cho phù hợp.
- Tại buổi gặp gỡ với khách hàng, Ngân hàng phải chú ý tới mọi mối quan tâm của khách hàng liên quan đến kế hoạch.
- Trong trường hợp khách hàng vay bày tỏ không đồng ý với kế hoạch vì họ cho rằng kế hoạch đó là quá khắt khe, cơ hội đạt được là khó khăn, xa vời, cần phải tìm hiểu xem khách hàng có còn động cơ tiếp tục kinh doanh nữa hay không.
Tư vấn khách hàng tháo gỡ khó khăn
Để hỗ trợ cho việc thực hiện kế hoạch, Ngân hàng cần tư vấn cho khách hàng nhằm tháo gỡ khó khăn trong kinh doanh. Những khó khăn nói ở đây thuộc dạng nhất thời, chủ yếu do cung cách điều hành, chiến lược kinh doanh bất hợp lý, chậm thích nghi với sự thay đổi của thị trường, mô hình không còn