Khái Niệm Về Năng Lực Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng


thích hợp. Ngoài ra Ngân hàng có thể tư vấn trong trường hợp có thể khách hàng lâm vào tình trạng SXKD ngày một trầm trọng có thể dẫn tới phá sản. Lưu ý rằng phải rất cẩn trọng khi tư vấn hỗ trợ, vì sự thay đổi sản xuất có thể dẫn tới việc ngân hàng phải cho vay thêm.

Thứ năm, quản lý và theo dõi việc thực hiện kế hoạch

Ngân hàng báo cáo thường xuyên tình hình thực hiện kế hoạch cho các cấp lãnh đạo. Công việc quản lý và theo dõi, bao gồm:

- Theo dõi kết quả tài chính hàng tháng và bất kỳ điều khoản và/hoặc các tỷ số tài chính được đưa ra như là một điều kiện chấp nhận kế hoạch.

- Quản lý những kết quả đạt được của những mục tiêu khác đặt ra trong kế hoạch này (giảm hàng tồn kho hoặc các khoản nợ còn tồn đọng, bán TSCĐ, giảm nợ).

Thứ sáu, thực hiện các biện pháp xử lý nợ vay có vấn đề và xử lý tổn thất tín dụng

Hình thức xử lý khai thác


Các hình thức xử lý khai thác thường được sử dụng bao gồm: cho vay thêm; cơ cấu lại khoản vay về thời hạn hoặc số tiền; bổ sung tài sảm bảo đảm; chuyển nợ quá hạn; thực hiện khoanh nợ, xóa nợ; chỉ định đại diện tham gia quản lý doanh nghiệp;

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 192 trang tài liệu này.

Hình thức sử dụng các biện pháp thanh lý


Nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế - 6

Các hình thức sử dụng biện pháp thanh lý bao gồm: xử lý nợ tồn đọng (đối với các đối tượng có TSĐB; không có TSĐB và không còn đối tượng để thu; không có TSĐB và còn hoạt động); thanh lý doanh nghiệp; khởi kiện; bán nợ; sử dụng dự phòng rủi ro tín dụng.


1.2. NĂNG LỰC QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.2.1. Khái niệm về năng lực quản trị rủi ro tín dụng

Hiện nay vẫn chưa có khái niệm cụ thể, thống nhất về năng lực quản trị rủi ro tín dụng. Tuy nhiên, năng lực quản trị rủi ro tín dụng được hiểu là khả năng điều hành, giải quyết rủi ro tín dụng.

Để tìm hiểu về năng lực quản trị rủi ro tín dụng, trước hết cần làm rõ một số nội dung cụ thể như sau:

Theo một từ điển tiếng việt định nghĩa:

“Năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó”. [69]

Năng lực là năng lực của một cá nhân, của một tập thể hay một nhóm người, một tổ chức. Có thể nói, năng lực là sự tổng hợp những thuộc tính của cá nhân hoặc tổ chức đáp ứng những yêu cầu của hoạt động và đảm bảo cho hoạt động đạt hiệu quả cao.

Về thuật ngữ quản trị, cho tới ngày nay đã có khá nhiều khái niệm liên quan tới quản trị. Có thể hiểu, quản trị là các hoạt động được thực hiện nhằm bảo đảm sự hoàn thành công việc qua những nỗ lực của người khác. Hay quản trị là công tác phối hợp có hiệu quả các hoạt động của những người cộng sự khác cùng chung một tổ chức.

Ngoài ra, một khái niệm khá đầy đủ và chi tiết về quản trị được đưa ra trong tài liệu Quản trị (“Management”) xuất bản năm 1982 bởi James Stoner như sau:

“Quản trị là tiến trình hoạch định, tổ chức, lãnh đạo và kiểm soát những hoạt động của các thành viên trong tổ chức và sử dụng tất cả các nguồn lực khác của tổ chức nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra” [53]


Qua phân tích trên cho thấy, các nhà quản trị cần phải thực hiện các hoạt động quản trị nhằm đạt được những mục tiêu mong đợi. Những hoạt động này hay còn gọi là chức năng quản trị bao gồm:

- Hoạch định: nhà quản trị cần phải xác định trước những mục tiêu và quyết định tốt nhất để đạt được mục tiêu;

- Tổ chức: đây là công việc liên quan tới sự phân bổ nguồn lực của tổ chức (nguồn lực về con người, về tài chính, về chuyên môn, …);

- Lãnh đạo: đây là thuật ngữ mô tả sự tác động đối với các thuộc cấp cũng như sự giao việc cho những người khác làm.

- Kiểm soát: nhà quản trị không ngừng nỗ lực để đảm bảo rằng tổ chức đang đi đúng mục tiêu đã đề ra, nếu có sự lệch lạc thì có biện pháp điều chỉnh cho phù hợp;

Hiện nay, thuật ngữ “Quản trị” vẫn thường được sử dụng nhầm lẫn với thuật ngữ “Quản lý” tuy nhiên hai thuật ngữ này mang ý nghĩa không tương đồng. bởi thuật ngữ quản lý gắn liền với quản lý nhà nước, quản lý xã hội, tức là quản lý ở tầm vĩ mô. Trong khi đó, thuật ngữ quản trị thường dùng ở phạm vi nhỏ hơn đối với một tổ chức. Do đó, điểm khác biệt giữa quản lý và quản trị rủi ro tín dụng là việc quản trị rủi ro tín dụng gắn liền trong phạm vi nhỏ, ở các doanh nghiệp, đoàn thể, các tổ chức tài chính – tín dụng thực hiện hoạch định, tổ chức, lãnh đạo và kiểm soát những hoạt động của các thành viên trong tổ chức và sử dụng tất cả các nguồn lực khác của tổ chức nhằm kiểm soát, quản lý và hạn chế rủi ro tới mức có thể chấp nhận được. Còn quản lý rủi ro tín dụng thường gắn liền với hoạt động mang tầm vĩ mô của nhà nước thực hiện các hoạt động quản lý nhằm kiểm soát và giảm thiểu rủi ro tín dụng mang tầm vĩ mô, trên góc độ một quốc gia.

Qua các phân tích trên, tác giả khái quát về năng lực quản trị rủi ro tín dụng như sau:


Năng lực quản trị rủi ro tín dụng là tổng hòa các thuộc tính của đơn vị (như về hệ thống quản trị rủi ro; các quy định, quy trình, thủ tục và chính sách tín dụng; quản lý, điều hành và giám sát của Ban lãnh đạo; hệ thống thông tin quản lý; năng lực tài chính) nhằm đáp ứng những yêu cầu về hoạch định, tổ chức, lãnh đạo và kiểm soát những hoạt động của các thành viên trong tổ chức và sử dụng tất cả các nguồn lực khác của tổ chức nhằm hạn chế, kiểm soát rủi ro tín dụng có thể xảy ra đối với các ngân hàng, tổ chức tín dụng.

Về thuật ngữ nâng cao có thể hiểu là sự cải thiện, làm cho một hoạt động, một tổ chức hoặc một hệ thống hoạt động tốt lên, tăng năng suất hay đạt hiệu quả tối đa trong công việc. Trên thực thế có thể dễ dàng thấy rằng thuật ngữ nâng cao thường được đi với các cụm từ như nâng cao năng suất, nâng cao hiệu quả,.. đều mang ý nghĩa nhằm không ngừng cải thiện, củng cố một khía cạnh, vấn đề hay một nội dung, hoạt động nào đó.

Như vậy, nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng được hiểu là việc cải thiện, hoàn thiện các các thuộc tính của đơn vị (như về tài chính, nhân lực,

…) nhằm đáp ứng những yêu cầu về hoạch định, tổ chức, lãnh đạo và kiểm soát những hoạt động của các thành viên trong tổ chức và sử dụng tất cả các nguồn lực khác của tổ chức nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra mà cụ thể là nhằm hạn chế, kiểm soát được rủi ro tín dụng có thể xảy ra đối với các ngân hàng, tổ chức tín dụng.

1.2.2. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng

Trong hoạt động cho vay của các Ngân hàng thương mại, rủi ro mà đặc biệt là rủi ro tín dụng là vấn đề tất yếu, cố hữu. Do đó, vấn đề đặt ra cho các ngân hàng thương mại không phải là triệt tiêu rủi ro mà là hạn chế rủi ro tới mức có thể chấp nhận được. Vì vậy, trong các Ngân hàng thương mại nói chung, bên cạnh việc phát triển tín dụng thì hoạt động quản trị rủi ro mà đặc


biệt là rủi ro tín dụng và năng lực quản trị rủi ro tín dụng luôn được đặc biệt chú ý, thường xuyên hoàn thiện và nâng cao bắt nguồn từ những lý do chủ yếu sau:

Thứ nhất, xuất phát từ đặc thù trong hoạt động của Ngân hàng thì rủi ro tín dụng mang tính chất cố hữu, tất yếu

Rủi ro nói chung và rủi ro tín dụng nói riêng là đặc điểm cố hữu trong hoạt động của các ngân hàng nói chung. Do đó, các ngân hàng thương mại luôn nỗ lực hạn chế rủi ro tới mức có thể chấp nhận được chứ không chối bỏ rủi ro. Để làm được việc đó, hoạt động và năng lực quản trị rủi ro luôn được quan tâm sát sao. Năng lực quản trị rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại là nền tảng, cơ sở, là nhân tố quan trọng nhất góp phần nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng. Để giảm thiểu rủi ro tín dụng tới mức có thể chấp nhận được, ngân hàng cần không ngừng nỗ lực nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng của mình.

Thứ hai, xuất phát từ tầm ảnh hưởng nghiêm trọng của rủi ro tín dụng

Trong hoạt động của mình, ngân hàng phải đối mặt với rất nhiều rủi ro ngoài rủi ro tín dụng như rủi ro hoạt động, rủi ro thị trường, … Tuy nhiên, trong các loại rủi ro mà ngân hàng phải đối mặt thì rủi ro tín dụng là rủi ro cơ bản nhất, nguy hiểm nhất cho mọi ngân hàng nói chung. Đồng thời, rủi ro tín dụng có quan hệ chặt chẽ với các loại rủi ro khác và giữa chúng có mối quan hệ, tác động qua lại lẫn nhau.

Sự ảnh hưởng đặc biệt lớn của rủi ro tín dụng khiến các ngân hàng nói chung không ngừng thực hiện các biện pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng. đây là một yêu cầu bức thiết của mọi ngân hàng nói chung. Nếu có một hệ thống quản trị rủi ro tín dụng chặt chẽ, hiệu quả có thể nói ngân hàng đã trang bị cho mình một lá chắn khá vững vàng nhằm đối phó với rủi ro tín dụng.

Thứ ba, xuất phát từ yêu cầu bảo toàn vốn của ngân hàng


Quản trị rủi ro tín dụng là một nội dung mà bất kỳ ngân hàng nào cũng phải thực hiện không chỉ riêng ngân hàng thương mại ở Việt Nam nếu muốn bảo toàn và phát triển vốn bởi nó đáp ứng về cơ bản yêu cầu này theo các phương diện:

- Giảm chi phí do giảm thiểu chi phí xử lý nợ;

- Ngăn ngừa và hạn chế tình trạng mất nguồn thu do mất vốn do phải xử lý rủi ro hay tổn thất khi không thu được nợ của khách hàng.

Hai vấn đề trên nếu được thực hiện tốt sẽ giúp cho ngân hàng có kết quả hoạt động tốt hơn, tạo điều kiện ngân hàng bảo toàn và tăng trưởng vốn. Mở rộng hoạt động kinh doanh.

Thứ tư, năng lực quản trị rủi ro tín dụng là nền tảng, là yếu tố cơ bản hàng đầu cần đặc biệt chú trọng trong hoạt động quản trị rủi ro tín dụng

Để có được một hệ thống quản trị rủi ro tín dụng hiệu quả thì năng lực quản trị rủi ro tín dụng là yếu tố cơ bản, quan trọng hàng đầu và không thể tách rời ra khỏi hoạt động quản trị rủi ro tín dụng. Năng lực quản trị rủi ro tín dụng bao gồm từ năng lực về vật chất và năng lực phi vật chất của ngân hàng. Kết hợp các yếu tố đó lại để có một hệ thống quản trị rủi ro hiệu lực, hiệu quả.

1.2.3. Các tiêu chí đánh giá năng lực quản trị rủi ro tín dụng

Năng lực quản trị rủi ro tín dụng của các ngân hàng nói chung không chỉ được đánh giá thông qua nhiều tiêu chí khác nhau, đảm bảo tính toàn diện, bao quát. Cụ thể, các tiêu chí thường được sử dụng trong việc đánh giá năng lực quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng bao gồm:

- Hệ thống quản trị rủi ro tín dụng;

- Hệ thống các quy định, quy trình, chính sách tín dụng;

- Năng lực quản lý, điều hành và giám sát của HĐQT, BGĐ;

- Hệ thống thông tin quản lý;

- Năng lực tài chính của Ngân hàng.


1.2.3.1. Hệ thống quản trị rủi ro tín dụng

Trong mỗi ngân hàng, hệ thống quản trị rủi ro tín dụng là nhân tố tối quan trọng trong Năng lực quản trị rủi ro tín dụng của Ngân hàng. Để xem xét hệ thống quản trị rủi ro tín dụng của Ngân hàng, cần làm rõ các nhân tố cấu thành sau:

- Mô hình quản trị rủi ro tín dụng

Theo Luận án Tiến sỹ Kinh tế “Quản lý rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam” của tác giả Nguyễn Đức Tú đưa ra khái niệm về mô hình quản trị rủi ro tín dụng như sau:

“Mô hình quản trị rủi ro tín dụng là cách thức quản trị rủi ro tín dụng của một ngân hàng trong đó thể hiện đưuọc cách thức tổ chức quản lý, nhận biết, đo lường, kiểm soát rủi ro tín dụng nhằm khống chế rủi ro tín dụng trong một giới hạn cho phép theo nguyên tắc tối đa hóa lợi nhuận của ngân hàng.” [32]

Mô hình quản trị rủi ro tín dụng là một nhân tố ảnh hưởng mạnh mẽ tới năng lực quản trị rủi ro tín dụng của Ngân hàng. Xét theo cách thức tổ chức hoạt động quản trị rủi ro tín dụng thì mô hình quản trị rủi ro tín dụng được chia thành hai loại là mô hình quản trị rủi ro phân tán và mô hình quản trị rủi ro tập trung. Với mỗi cách thức tổ chức mô hình quản trị rủi ro tín dụng sẽ có ảnh hưởng nhất định đối với năng lực quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng, cụ thể:

+ Mô hình quản trị rủi ro phân tán là cách thức tổ chức hoạt động quản trj rủi ro tín dụng tản mát, ở nhiều bộ phận khách nhau, quyền quyết định và quản lý rủi ro của khoản vay không tập trung ở trung ương và trải đều cở các cấp cơ sở.

Mô hình quản trị rủi ro phân tán có đặc điểm gọn nhẹ, cơ cấu tổ chức đơn giản, thích hợp với ngân hàng có quy mô nhỏ. Như vậy, với những ngân


hàng có quy mô lớn việc áp dụng mô hình quản trị rủi ro phân tán lại chưa phù hợp, dẫn tới hiệu quả quản trị rủi ro không đảm bảo làm giảm năng lực quản trị rủi ro tín dụng của những ngân hàng này.

Mô hình quản trị rủi ro phân tán dẫn tới nhiều công việc tập trung ở một bộ phận, thiếu sự chuyên sâu dẫn tới chất lượng công tác chưa cao.

Với mô hình này, việc quản lý hoạt động tín dụng đều theo phương thức từ xa, dựa trên số liệu chi nhánh báo cáo lên hoặc quản lý gián tiếp thông qua chính sách tín dụng. Ngoài ra, mỗi chi nhánh đều có một chính sách phân loại khách hàng riêng, đánh giá rủi ro riêng. Dẫn tới mô hình quản lý rủi ro kém hiệu quả, năng lực quản trị rủi ro thấp.

Ngoài ra, thông tin không tập trung tại Hội đồng quản trị, các chính sách và chiến lực quản trị rủi ro không sát với tình hình thực tiễn tại ngân hàng dẫn tới nhiều rủi ro trong hoạt động tín dụng.

+ Mô hình quản trị rủi ro tập trung là cách thức tổ chức quản lý rủi ro dựa trên nguyên tắc tập trung tại một bộ phận, quyền quyết định và quản lý rủi ro khoản vay tập trung ở trung ương.

Với mô hình quản trị rủi ro tập trung hoạt động quản trị rủi ro được chuyên môn hóa. Tuy nhiên để thực hiện được đòi hỏi thời gian dài, nhiều công sức và tài chính. Đồng thời nếu không có phương thức vận hành tốt sẽ trở nên cồng kềnh, mang nặng tính hành chính, thủ tục và trực tiếp ảnh hưởng tới năng lực quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng.

- Tổ chức nhân sự của hệ thống

Tổ chức nhân sự của hệ thống là một nhân tố đóng vai trò đặc biệt quan trọng khi xem xét năng lực quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại. Bởi mọi hoạt động đều do ý chí của con người ảnh hưởng và quyết định. Các chính sách được xây dựng, thực thi bởi chính con người. Như vậy có thể thấy rằng con người – nguồn nhân lực là hạt nhân, nền tảng của năng lực quản trị

Xem tất cả 192 trang.

Ngày đăng: 11/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí