Nguyên Tắc Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng


nhận được trong hoạt động tín dụng của mình. Trên cơ sở đó xây dựng các cơ chế, chính sách về quản trị rủi ro cho phù hợp.

Trong luận án tiến sỹ “Quản trị rủi ro tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn” của tác giả Nguyễn Tuấn Anh có đưa ra quan điểm:

“Quản trị rủi ro tín dụng là quá trình xây dựng và thực thi các chiến lược, chính sách, biện pháp có liên quan đến hoạt động tín dụng nhằm ngăn ngừa, hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng” [1]

Trong khái niệm nêu trên đây, tác giả đã đưa ra quản trị rủi ro tín dụng là cả một quá trình từ xây dựng tới thực thi các cơ chế, chính sách và biện pháp tác động tới hoạt động tín dụng để ngăn ngừa, hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Tuy nhiên, các khái niệm trên đây đều chỉ nêu khái quát về việc ngăn ngừa, hạn chế hoặc giảm thiểu rủi ro tín dụng nhưng chưa đưa ra thước đo cụ thể về mức độ ngăn ngừa, hạn chế hay giảm thiểu rủi ro tín dụng như thế nào.

Qua các phân tích trên đây, có thể khái quát như sau:

“Quản trị rủi ro tín dụng trong Ngân hàng thương mại là tổng hòa các biện pháp, chính sách của ngân hàng thương mại tác động tới hoạt động tín dụng nhằm ngăn ngừa, hạn chế rủi ro tín dụng cho ngân hàng tới mức có thể chấp nhận được.”

Ở đây, để hoạt động quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng đạt được hiệu quả cao. Ngân hàng cần xây dựng chiến lược quản trị rủi ro tín dụng của mình, trong đó có nội dung hết sức quan trọng về khẩu vị rủi ro hay nói cách khác là mức độ rủi ro có thể chấp nhận được của ngân hàng. Trên cơ sở chiến lược quản trị rủi ro đã xây dựng, ngân hàng tiếp tục xây dựng chính sách, biện pháp, các quy trình và thủ tục thực thi hoạt động quản trị rủi ro tín dụng trên


cơ sở tuân thủ, nhất quán với chiến lược quản trị rủi ro tín dụng đã xây dựng trước đó.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 192 trang tài liệu này.

Quản trị rủi ro tín dụng không có nghĩa là né tránh rủi ro mà phải đối diện với nó và tìm cách xử lý nó một cách hiệu quả nhất.

1.1.2.2. Nguyên tắc quản trị rủi ro tín dụng

Nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế - 4

Để xây dựng một hệ thống quản trị rủi ro tín dụng tốt, các ngân hàng cần tuân thủ các nhóm yêu cầu, nguyên tắc sau:

a. Thiết lập môi trường rủi ro tín dụng phù hợp

Thứ nhất, Ban Giám đốc cần có trách nhiệm trong việc phê chuẩn và định kỳ (ít nhất là hàng năm) phải xem xét chiến lược rủi ro tín dụng và các chính sách rủi ro tín dụng trọng yếu của ngân hàng. Chiến lược có thể ảnh hưởng tới khả năng ghánh chịu rủi ro của ngân hàng và mức độ sinh lời mà ngân hàng mong đợi để có thể gánh chịu những rủi ro tín dụng đa dạng.

Thứ hai, các nhà quản lý cấp cao cần có trách nhiệm cho việc thực hiện chiến lược rủi ro tín dụng đã được phê chuẩn bởi Ban Giám đốc và việc hoàn thiện chính sách, thủ tục cho việc nhận diên, tianhs toán, giám sát và kiểm soát rủi ro tín dụng. Các chính sách, thủ tục cần chỉ ra rủi ro tín dụng trong tất cả các hoạt động của ngân hàng kể cả tín dụng cá nhân và các cấp độ danh mục tín dụng.

Thứ ba, ngân hàng cần nhận diện và quản lý rủi ro tín dụng tiềm tàng trong tất cả các sản phẩm, hoạt động của mình. Các ngân hàng phải đảm bảo rằng rủi ro của các sản phẩm, hoạt động mới với họ đã được đảm bảo một cách đầy đủ bởi các thủ tục, các bước kiểm soát rủi ro trước khi được giới thiệu, thực hiện hoặc phê duyệt trước bởi ban giám đốc hoặc các ban ngành có thẩm quyền.


b. Hoạt động dưới quy trình cấp tín dụng hoàn chỉnh

Thứ nhất, ngân hàng phải hoạt động với các tiêu chuẩn cấp tín dụng hoàn chỉnh, rõ ràng. Các tiêu chuẩn này thường bao gồm các chỉ dẫn rõ ràng về thị trường mục tiêu của ngân hàng và những hiểu biết thấu đáo về người vay cũng như mục đích và kết cấu của khoản tín dụng, nguồn trả nợ của nó.

Thứ hai, ngân hàng cần thiết lập các hạn mức tín dụng chung cho các đối tượng vay cá nhân và các đối tác, các tổ chức của các đối tác có liên quan

Thứ ba, ngân hàng cần thiết lập quy trình rõ ràng trong việc phê duyệt khỏan tín dụng mới như các sửa đổi bổ sung, gia hạn hoặc tái cấp vốn các khoản tín dụng hiện hữu.

Thứ tư, tất cả các việc mở rộng tín dụng phải được thực hiện dựa trên cơ sở bình thường. Thông thường, các khoản tín dụng liên quan tới doanh nghiệp và cá nhân phải được ủy quyền dựa trên các cơ sở ngoại lệ, được giám sát bởi các bước thích hợp nhằm kiểm soát hoặc giảm thiểu rủi rỏ của các khoản vay bất thường.

c. Duy trì việc quản lý tín dụng phù hợp, đánh giá và giám sát quy trình Thứ nhất, ngân hàng cần có sẵn một hệ thống quản lý liên tục các danh

mục tín dụng mang các rủi ro khác nhau.

Thứ hai, ngân hàng cần có hệ thống sẵn sàng cho việc giám sát tình hình các khoản tín dụng cá nhân, bao gổm cả việc xác định đầy đủ các khoản dự phòng.

Thứ ba, các ngân hàng được khuyến khích để phát triển và tận dung hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ trong quản trị rủi ro tín dụng. Hệ thống chỉ số cần phải phù hợp với bản chất, quy mô và mức độ phức tạp của các hoạt động của ngân hàng.

Thứ tư, ngân hàng phải có hệ thống thông tin và các kỹ thuật phân tích cho phép nhà quản lý tính toán được các rủi ro tiềm tàng của các hoạt động


trong và ngoài bảng cân đối kế toán. Hệ thống thông tin quản lý phải cung cấp đầy đủ thông tin về cấu trúc của danh mục tín dụng, kể cả việc nhận diện bất kỳ sự tập trung rủi ro nào.

Thứ năm, ngân hàng cần có sẵn một hệ thống nhằm giám sát chung về cơ cấu và chất lượng của danh mục tín dụng.

Thứ sáu, ngân hàng cần xem xét các thay đổi tiềm tàng trong tương lai về điều kiện kinh tế khi đánh giá các khoản tín dụng cá nhân và các danh mục tín dụng của mình. Đồng thời cũng cần đánh giá các rủi ro tín dụng trong tình hình căng thẳng.

d. Đảm bảo đầy đủ các kiểm soát đối với rủi ro tín dụng

Thứ nhất, ngân hàng cần thiết lập một hệ thống độc lập, thường xuyên đánh giá các quy trình quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng và kết quả của việc rà xoát có thể được thông báo trực tiếp lên hội đồng quản trị hoặc nhà quản lý cấp cao.

Thứ hai, ngân hàng cần đảm bảo rằng các chức năng cấp tín dụng được quản lý một cách thích hợp và rủi ro tín dung với các mức độ phù hợp với nguyên tắc thận trọng và giới hạn nội bộ. Ngân hàng cần thiết lập và thực thi hệ thống kiểm soát nội bộ và các hoạt động khác để đảm bảo rằng các ngoại lệ về chính sách, thủ tục và các giới hạn được báo cáo một cách kịp thời tới các cấp quản lý có thẩm quyền cho việc ra quyết định.

Thứ ba, ngân hàng phải có sẵn một hệ thống cho các hành động sớm nhằm khắc phục rủi ro tín dụng, quản trị các vấn đề tín dụng và các tình huống tương tự.

e. Vai trò của người giám sát

Vai trò của các giám sát viên nhằm đảm bảo cho các ngân hàng có được một hệ thống hiệu quả sẵn có để nhận diện, đo lường, giám sát và kiểm soát rủi ro tín dụng, đóng vai trò nhưu là một phần của phương pháp kiểm soát rủi


ro. Các giám sát viên thực hiện các đánh giá độc lập về chiến lược, chính sách, thủ tục và các hoạt động của ngân hàng liên quan tới việc cấp tính dụng và việc quản lý liên tục các danh mục tính dụng. Các giám sát viên cần cân nhắc việc thiết lập giới hạn thận trọng để hạn chế rủi ro ngân hàng cho các đối tượng vay cá nhân hoặc tổ chức.

1.1.2.3. Nội dung quản trị rủi ro tín dụng

a. Nhận dạng và phân tích rủi ro

Khái niệm rủi ro tín dụng chỉ ra rằng ngân hàng có nguy cơ xẩy ra tổn thất khi khách hàng không thực được các nghĩa vụ như đã cam kết. Ngân hàng thương mại cần phải nắm bắt được tình trạng của hoạt động tín dụng để từ đó có những biện pháp hạn chế tới mức thấp nhất những rủi ro có thể xẩy ra.


sau:

Các ngân hàng thường nhận dạng rủi ro tín dụng thông qua các dấu hiệu


Các dấu hiệu tài chính:

Các dấu hiệu phi tài chính;

Các dấu hiệu về các vấn đề kỹ thuật và thương mại;

Các dấu hiệu về xử lý thông tin tài chính;

Các dấu hiệu khác.

Thứ nhất, các dấu hiệu tài chính:

- Các chỉ số thanh khoản cho thấy dấu hiệu suy yếu: các chỉ số thanh

khoản phản ánh khả năng thanh toán các khoản nợ của đơn vị. Các chỉ số thanh khoản cao cho thấy đơn vị có khả năng thanh toán các khoản nợ tốt, tuy nhiên nếu các chỉ số thanh khoản quá cao lại cho thấy đơn vị đang lãng phí nguồn lực của mình. Để xem xét khả năng thanh khoản của khách hàng, thường xem xét tới các chỉ số sau: tỷ số thanh toán hiện hành; tỷ số thanh toán nhanh; tỷ số thanh toán tiền mặt.


- Các chỉ số khả năng sinh lời là các chỉ số phản ánh hiệu quả hoạt động của đơn vị. Thông qua các chỉ số này có thể thấy được đơn vị đang hoạt động có hiệu quả, có đạt được lợi nhuận tốt hay không. Các chỉ số khả năng sinh lời của đơn vị có thể được tính toán dựa trên các chỉ số sau: tỷ suất sinh lời trên tài sản; tỷ suất lợi nhuận thuần; tỷ suất lợi nhuận gộp; tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE); lợi nhuận biên từ hoạt động kinh doanh.

- Các chỉ tiêu phản ánh cơ cấu vốn như tỷ suất tự tài trợ; tỷ suất tự tài trợ TSCĐ và các chỉ tiêu khác.

- Các chỉ số vòng quay hoạt động thường được sử dụng bao gồm: hệ số vòng quay hàng tồn kho; hệ số vòng quay các khoản phải thu; hệ số vòng quay các khoản phải trả; hệ số vòng quay TSCĐ; hệ số vòng quay tổng tài sản.

Thứ hai, các dấu hiệu phi tài chính

Ngoài các thông tin tài chính, các thông tin phi tài chính cũng là dấu hiệu cảnh báo về rủi ro tín dụng cho các ngân hàng. Khi xem xét rủi ro tín dụng có khả năng xảy ra, ngân hàng cần xem xét các dấu hiệu sau: giảm sút mạnh số dư tiền gửi; công nợ gia tăng; mức độ vay thường xuyên; yêu cầu khoản vay vượt quá nhu cầu dự kiến; chấp nhận sử dụng nguồn tài trợ lái suất cao; chấp nhận thanh toán nợ gốc và lãi cho ngân hàng; có sự thay đổi về cơ cấu ngân sách trong hệ thống quản trị; xuất hiện sự bất đồng trong hệ thống điều hành; ít kinh nghiệm, xuất hiện nhiều hành động nhất thời; thuyên chuyển nhân viên quá thường xuyên; tranh chấp trong quá trình quản lý; chi phí quản lý bất hợp pháp; quản lý có tính gia đình.

Thứ ba, các dấu hiệu về vấn đề kỹ thuật và thương mại

Các dấu hiệu về mặt kỹ thuật và thương mại thường được sử dụng, xem xét để nhận diện rủi ro tín dụng bao gồm: khó khăn trong phát triển các sản phẩm mới hoặc không có sản phẩm thay thế; những thay đổi chính sách của


nhà nước; sản phẩm có tính thời vụ cao; có biểu hiện cắt giảm chi phí; thay đổi trên thị trường về lãi suất, tỷ giá, mất khách hàng lớn, vấn đề thị hiếu.

Thứ tư, các vấn đề về xử lý thông tin phi tài chính

Các vấn đề về xử lý thông tin phi tài chính được sử dụng trong xét đoán về rủi ro tín dụng bao gồm: sự gia tăng tỷ lệ không cân đối nợ; chuẩn bị số liệu tài chính không đủ, trì hoãn nộp báo cáo; khả năng tiền mặt giảm hoặc cố tình làm đẹp bằng TSCĐ vô hình; phải thu tăng nhanh và thời hạn thanh toán kéo dài; kết quả kinh doanh lỗ.

Thứ năm, các dấu hiệu khác

Các dấu hiệu khác có thể được sử dụng bao gồm: sự xuống cấp của đơn vị kinh doanh; hàng tồn kho tăng do không bán được, hư hỏng, lạc hậu; có sự kỷ luật với cán bộ chủ chốt.

b. Đo lường rủi ro tín dụng

Mô hình định tính được xem là mô hình cổ diển để đánh giá rủi ro tín dụng. Hiện nay, hầu hết các ngân hàng đều tiếp cận phương pháp đánh giá rủi ro hiện đại hơn, đó là lượng hóa rủi ro tín dụng. Sau đây, là một số mô hình lượng hóa rủi ro tín dụng thường được sử dụng nhiều nhất:

Thứ nhất, mô hình định tính

Mô hình định tính thường được sử dụng là mô hình 6C (Phân tích tín dụng) kết hợp với việc kiểm tra tín dụng. Đối với mô hình 6C, thì với mỗi khoản vay, câu hỏi đầu tiên của ngân hàng là liệu khách hàng có thiện chí và khả năng thanh toán khi khoản vay đến hạn hay không? Điều này liên quan đến việc nghiên cứu chi tiết “6 khía cạnh – 6C” của khách hàng, bao gồm:

Tư cách người vay (Character): cán bộ tính dụng phải chắc chắn rằng liệu khách hàng có mục đích tín dụng rõ ràng vầ có thiện chí nghiêm chỉnh trả nợ khi hết hạn.


Năng lực của người vay (Capacity): Người đi vay phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự, người vay phải là đại diện hợp pháp của doanh nghiệp.

Thu nhập của người vay (Cashflow): xác định nguồn trả nợ của khách hàng vay nợ.

Bảo đảm tiền vay (Collater): là nguồn thu thứ 2 có thể dùng để trả nợ vay cho ngân hàng.

Các điều kiện (Conditions): ngân hàng quy định các điều kiện tùy theo chính sách tín dụng từng thời kỳ.

Kiểm soát (Control): đánh giá những ảnh hưởng do sự thay đổi của pháp luật, quy chế hoạt động, khả năng khách hàng đáp ứng các tiêu chuẩn của ngân hàng.

Thứ hai, mô hình định lượng

Các mô hình định lượng thường được sử dụng trong đo lường rủi ro tín dụng bao gồm: mô hình điểm số Z; mô hình xếp hạng tín dụng của Moody và Standard & Poor; mô hình dựa trên mức tổn thất ước tính được (Expected loss).

Mô hình điểm số Z: mô hình này do E.Ialtman xây dựng và phụ thuộc vào các yếu tố:

Chỉ số các yếu tố tài chính của người vay – X

Tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của người vay trong quá khứ

Mô hình này được mô tả như sau:

Z = 1,2 X1 + 1,4 X2 + 3,3 X3 + 0,6 X4 + 1,0 X5 (*)

Trong đó:

X1: Tỷ số “Vốn lưu động ròng/tổng tài sản” X2: Tỷ số “Lợi nhuận tích lũy/tổng tài sản”

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 11/05/2023