Hệ Thống Các Quy Định, Quy Trình, Thủ Tục Và Chính Sách Tín Dụng


rủi ro tín dụng. Để xem xét năng lực quản trị rủi ro tín dụng xét tới yếu tố con người, ta phải xem xét hai khía cạnh đó là:

+ Năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của hệ thống nhân viên ngân hàng và của từng cá nhân. Để đánh giá điểm này, cần phải xem xét tới các yếu tố sau:

Số lượng nhân viên có trình độ từ đại học trở lên trên tổng số nhân viên của ngân hàng: chỉ tiêu này phản ánh được phần nào về chất lượng nguồn nhân lực của ngân hàng;

Tỷ suất doanh thu hoặc lợi nhuận trước thuế trên đầu nhân viên của ngân hàng;

Chính sách đào tạo, tuyển dụng và quy trình đánh giá chất lượng và hiệu quả của từng nhân viên trong ngân hàng.

+ Năng lực về tổ chức, phân công lao động một cách phù hợp trong hệ thống quản trị rủi ro tín dụng. Năng lực này được thể hiện chủ yếu ở năng lực tổ chức, đánh giá và phân công lao động của các cấp quản lý, cụ thể:

Trình độ, năng lực và kinh nghiệm của Ban Tổng Giám đốc và Hội đồng quản trị của ngân hàng;

Chính sách tổ chức, đánh giá và phân công lao động trong ngân hàng.

+ Đạo đức nghề nghiệp của nhân viên trong ngân hàng: đây là một tiêu chí rất khó để đánh giá, nhưng nó cho thấy khả năng gian lận của nhân viên trong ngân hàng. Thông thường, để đánh giá được tiêu chí này ta có thể xem xét về số vụ gian lận trong hoạt động ngân hàng bình quân một năm của một nhân viên.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 192 trang tài liệu này.

1.2.3.2. Hệ thống các quy định, quy trình, thủ tục và chính sách tín dụng

Hệ thống các quy định, quy trình, thủ tục và chính sách tín dụng là tổng hòa tất cả các Nghị quyết, Quyết định, và văn bản quy định về quy trình, quy

Nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế - 7


chế, thủ tục trong công tác huy động, quản lý, cấp phát tín dụng và quản trị rủi ro cũng như các hoạt động khác trong ngân hàng nhằm đảm bảo hoạt động của ngân hàng đạt hiệu quả cao và giảm thiểu rủi ro tới mức có thể chấp nhận được.

Các ngân hàng luôn phải cần thiết kế các quy trình, thủ tục và chính sách kiểm soát và quản lý các rủi ro phát sinh từ các hoạt động mà ngân hàng thực hiện. Một khi các rủi ro đã được nhận diện đúng đắn, thì các chính sách của ngân hàng cũng như các thủ tục đã được xây dựng đầy đủ, rõ ràng cung cấp sự hướng dẫn chi tiết cho việc thực hiện các chiến lược đa dạng của ngân hàng hàng ngày, và do đó các chính sách này thường bao gồm các giới hạn về rủi ro được thiết kế nhằm bảo vệ ngân hàng khỏi các rủi ro thiếu thận trọng hoặc vượt quá ngưỡng giới hạn.

Hệ thống các quy định, quy trình, thủ tục và chính sách tín dụng đầy đủ có nghĩa là một hệ thống các chính sách có khả năng bao quát hết mọi rủi ro tín dụng trọng yếu đối với ngân hàng. Có nghĩa là, nếu như ngân hàng thực hiện được đầy đủ, phù hợp, nhất quán hệ thống chính sách này sẽ đảm bảo cho ngân hàng không gặp phải những rủi ro tín dụng trọng yếu. Không những thế, hệ thống này còn phải thường xuyên được cập nhật, sửa đổi và bổ sung cho phù hợp với thực tiễn hoạt động của ngân hàng trong thời đại đổi mới không ngừng như hiện nay.

Thông thường, đối với các tổ chức ngân hàng nhỏ, mức độ phức tạp không cao, có bộ phận quản lý hiệu quả và thường xuyên thực hiện giám sát các hoạt động hàng ngày thì thường các chính sách quản lý cơ bản nhằm giải quyết các hoạt động quan trọng, các hoạt động chứa đựng rủi ro chính và đồng thời các đơn vị này sẽ đưa ra một số hạn chế các yêu cầu và thủ tục.


Đối với các tổ chức, ngân hàng lớn, phức tạp và hoạt động phân tán nhà quản lý thường dựa vào các đội ngũ nhân viên ở các chi nhánh, các văn phòng thì các chính sách, quy trình và thủ tục đưa ra sẽ chặt chẽ, chi tiết cụ thể hơn.

Khi xây dựng quy định, quy trình, thủ tục và chính sách tín dụng của ngân hàng, các ngân hàng cần chú ý tới các điểm sau:

- Các chính sách, quy trình, thủ tục và giới hạn được thiết kế có đảm bảo khả năng nhận diện, đánh giá, giám sát và kiểm soát các rủi ro liên quan tới các hoạt động cho vay, đầu tư, kinh doanh, ủy thác và các dịch vụ chủ yếu khác của ngân hàng hay không?

- Các chính sách, quy trình, thủ tục và giới hạn này có phù hợp với từng mức độ kinh nghiệm của các cấp quản lý, phù hợp với mục tiêu và kế hoạch đã đặt ra hay không? Và có phù hợp với khả năng tài chính chung của ngân hàng hay không?

- Các chính sách có chỉ rõ quyền hạn và trách nhiệm của từng bộ phận, cá nhân trong các hoạt động của ngân hàng hay không?

- Các chính sách có đưa ra việc rà soát các hoạt động mới đối với ngân hàng để đảm bảo rằng các bộ phận, cơ sở hạ tầng cần thiết để nhận diện, giám sát và kiểm soát rủi ro gắn với các hoạt động mới này là đã sẵn sàng, đầy đủ, có hiệu lực trước khi các hoạt động này được giới thiệu lần đầu tiên hay không?

1.2.3.3. Năng lực quản lý, điều hành và giám sát của HĐQT, Ban Giám đốc

Năng lực quản lý, điều hành và giám sát của HĐQT, Ban Giám đốc là tổng hòa các kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm cũng như trình độ quản lý, tổ chức và giám sát hoạt động của ngân hàng xuyên suốt các lĩnh vực hoạt động của Ngân hàng.


Năng lực quản trị rủi ro tín dụng của Hội đồng quản trị, Ban giám đốc được đánh giá theo chức năng của họ trên các hoạt động về xác định, đo lường, theo dõi và kiểm soát rủi ro tín dụng để đảm bảo hoạt động tín dụng an toàn, lành mạnh, tuân thủ các qui định về tín dụng. Hội đồng quản trị không nhất thiết phải tham gia trực tiếp điều hành hoạt động hàng ngày của ngân hàng, tuy nhiên họ cần đưa ra các định hướng rõ ràng về mức độ rủi ro có thể chấp nhận được đối với hoạt động tín dụng và đảm bảo các chính sách, thủ tục và biện pháp phù hợp được thiết lập. Ban giám đốc của ngân hàng có trách nhiệm triển khai thực hiện các chính sách, qui trình được Hội đồng quản trị đưa ra vào các hoạt động hàng ngày của ngân hàng. Hoạt động quản lý tốt được thể hiện bao gồm: hoạt động giám sát tích cực của Hội đồng quản trị và Ban giám đốc; nhân viên có năng lực; có đầy đủ chính sách, qui trình, và hoạt động kiểm soát được triển khai; thực hiện chương trình kiểm soát, kiểm tra nội bộ; hệ thống theo dõi rủi ro và hệ thống thông tin quản lý hiệu quả.

Hội đồng quản trị chịu trách nhiệm vô hạn về rủi ro từ hoạt động của ngân hàng. Theo đó, họ thực hiện phê chuẩn chiến lược kinh doanh chung của ngân hàng, các chính sách quan trọng trong hoạt động của ngân hàng bao gồm các chính sách liên quan tới việc quản lý, mức độ rủi ro có thể chấp nhận được, đồng thời đảm bảo rằng các cán bộ quản lý có đủ năng lực trong việc quản lý hoạt động của ngân hàng. Các thành viên Hội đồng quản trị cần có sự hiểu biết sâu sắc về bản chất của các rủi ro trọng yếu đối với hoạt động của ngân hàng để đảm bảo rằng các cấp quản lý đã thực hiện đầy đủ các bước công việc cần thiết nhằm nhận diện, đánh giá, theo dõi và kiểm soát các rủi ro này.

Ban Giám đốc chịu trách nhiệm thực hiện các chiến lược nhằm giảm thiểu rủi ro gắn với từng chiến lược và đảm bảo tuân thủ các quy định pháp lý có liên quan trong cả dài hạn và hoạt động thường xuyên, hàng ngày của đơn


vị. Theo đó, Ban Giám đốc cần có hiểu biết đầy đủ về các hoạt động của ngân hàng để đảm bảo các chính sách, hệ thống theo dõi, kiểm soát rủi ro là thích hợp và có hiệu lực, hiệu lực liên tục.

Khi đánh giá năng lực, sự giám sát của Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc cần xem xét tới các yếu tố sau:

- Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc có hiểu biết sâu sắc và kiến thức vững vàng về các loại rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động của ngân hàng hay không? Có nỗ lực thực hiện các biện pháp phù hợp nhằm duy trình cảnh báo về các hoạt động quản lý rủi ro và việc mở rộng các hoạt động của ngân hàng,…

- Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc đã soát xét và phê chuẩn các chính sách phù hợp nhằm hạn chế các rủi ro tiềm tàng trong các hoạt động của ngân hàng (cho vay, huy động vốn, bảo lãnh, đầu tư, …) hay chưa?

- Hội đồng quản trị và Ban Giám đốc có thường xuyên sử dụng các công cụ, hệ thống báo cáo và lưu trữ dữ liệu nhằm đánh giá và kiểm soát các nguồn rủi ro chính của ngân hàng hay không?

- Ban giám đốc có định kỳ rà soát và phê duyệt các giới hạn rủi ro để phù hợp với bất kỳ thay đổi nào trong chiến lược của ngân hàng, các sản phẩm và dịch vụ mới cũng như để phản ứng lại với bất kỳ sự thay đổi nào về tình hình của thị trường hay không?

- Ban Giám đốc có đảm bảo rằng các từng lĩnh vực kinh doanh của ngân hàng được quản lý và bố trí nhân sự có đầy đủ kiến thức, hiểu biết, kinh nghiệm và chuyên môn phù hợp với bản chất và phạm vi của các hoạt động của ngân hàng hay không?

- Ban Giám đốc có đảm bảo rằng chiều sâu của nguồn nhân lực có đủ để quản lý và vận hành các hoạt động của ngân hàng một cách hiệu quả và các nhân viên của ngân hàng có chính trực, có đạo đức, có đủ năng lực phù hợp


với triết lý kinh doanh thận trọng của ngân hàng cũng như phong cách điều hành của ngân hàng hay không?

- Nhà quản lý, Giám đốc ở tất cả các cấp độ có đảm bảo giám sát đầy đủ các hoạt động hàng ngày của các nhân viên nghiệp vụ; bao gồm cả việc giám sát quản lý của các nhân viên nghiệp vụ cấp cao cũng như trưởng văn phòng giám đốc, quản lý ở các chi nhánh, phòng ban hay không?

- Ban Giám đốc có khả năng ứng phó với rủi ro phát sinh từ các thay đổi về môi trường cạnh tranh hoặc các sự tiến bộ trong thị trường mà ngân hàng hoạt động hay không?

- Trước khi tiến hành các hoạt động mới hoặc giới thiệu các sản phẩm – dịch vụ mới, Ban Giám đốc có thực hiện các bước để nhận diện và rà soát toàn bộ các rủi ro có thể phát sinh gắn liền với các hoạt động, sản phẩm và dịch vụ mới đó không? Đồng thời có đưa ra, xây dựng các chính sách kiểm soát nội bộ cần thiết để quản lý, giám sát, hạn chế các rủi ro đó hay không?

1.2.3.4. Hệ thống thông tin quản lý

Hệ thống thông tin quản lý bao gồm toàn diện hệ thống thông tin trong ngân hàng từ các thông tin tài chính cho tới các thông tin phi tài chính phản ánh một cách toàn diện nhất về mọi mặt hoạt động của Ngân hàng nhằm phục vụ cho mục đích quản lý và giám sát hoạt động trong Ngân hàng.

Việc giám sát rủi ro hiệu quả yêu cầu các tổ chức tín dụng, ngân hàng nhận riện và đánh giá được tất cả các rủi ro trọng yếu. Do đó, các hoạt động giám sát rủi ro phải được hỗ trợ bởi hệ thống thông tin nơi không những cung cấp cho các nhà quản lý cao cấp và Ban Giám đốc các báo cáo một cách kịp thời về tình hình tài chính, hiệu quả hoạt động và các rủi ro liên quan đến tổ chức hợp nhất, đồng thời còn cung cấp các báo cáo chi tiết đầy đủ một cách thường xuyên cho các nhà quản lý trong hoạt động quản lý hàng ngày của ngân hàng, tổ chức tín dụng.


Mức độ phức tạp của hệ thống thông tin quản lý và giám sát rủi ro thường nhất quán với mức độ phức tạp và đa dạng về các hoạt động của các tổ chức tín dụng và ngân hàng. Theo đó, Các ngân hàng, tổ chức tín dụng nhỏ và ít phức tạp thường yêu cầu mức giới hạn nhất định về báo cáo của Ban Giám đốc, các cấp quản lý đễ hỗ trợ các hoạt động giám sát rủi ro. Các báo cáo này thường bao gồm các Bảng Cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh hàng ngày hoặc hàng tuần, danh sách theo dõi các khoản nợ có vấn đề tiềm ẩn, báo cáo về các khoản nợ đến hạn, báo cáo rủi ro lãi suất và các báo cáo tương tự. Các tổ chức tín dụng, ngân hàng lớn hơn, mức độ phức tạp cao hơn tuy nhiên sẽ yêu cầu nhiều hệ thống giám sát và báo cáo tổng hợp hơn cho phép lập các báo cáo thường xuyên hơn, thắt chặt việc giám sát các hoạt động kinh doanh phức tạp và rủi ro tổng thể trên cơ sở hợp nhất toàn bộ các hoạt động kinh doanh. Các Ngân hàng, tổ chức tín dụng dù quy mô và mức độ phức tạp là cao hay thấp đều muốn có hệ thống thông tin quản lý và giám sát rủi ro thích hợp có thể cung cấp cho ban giám đốc và các cấp quản lý sự hiểu biết rõ ràng về tình hình của đơn vị cũng như các rủi ro tiềm ẩn.

Khi đánh giá mức độ đầy đủ của hệ thống thông tin, báo cáo quản lý và đánh giá, kiểm soát rủi ro của ngân hàng, tổ chức tín dụng cần phải xem xét các yếu tố sau:

- Các hoạt động và báo cáo giám sát rủi ro của ngân hàng có chỉ ra tất cả các rủi ro trọng yếu của đơn vị hay không?

- Các giả định chính, các nguồn dữ liệu, các thủ tục được sử dụng trong việc đánh giá và giám sát rủi ro có đầy đủ, phù hợp, được kiểm tra, dẫn chứng cho mức độ tin cậy trên cơ sở hoạt động liên tục không?

- Các báo cáo và các mẫu truyền thông khác có nhất quán với các hoạt động của ngân hàng, tổ chức tín dụng, có được xây dựng để giám sát các rủi


ro và tuân thủ các giới hạn, mục tiêu đã được thiết lập như tính phù hợp, so sánh giữa mức độ thực hiện thực tế và mong đợi.

- Các báo cáo lên các cấp quản lý, giám đốc có chính xác và kịp thời, có chứa đựng đầy đủ các thông tin cho người quyết định trong việc nhận diện các xu hướng bất lợi và đánh giá đầy đủ mức độ rủi ro mà ngân hàng, tổ chức có thể gặp phải hay không?

1.2.3.5. Năng lực tài chính của ngân hàng, tổ chức tín dụng

Năng lực tài chính là một trong những nhân tố chủ đạo chi phối tới năng lực quản trị rủi ro tín dụng, nó là nhân tố nền tảng, cơ sở cho mọi hoạt động của ngân hàng thương mại.

Trong đó, theo Luận án Tiến sỹ kinh tế“Năng lực Tài chính của các Ngân hàng Thương mại Việt Nam” của tác giả Phan Thị Hằng Nga có đưa ra khái niệm về năng lực tài chính như sau:

“Năng lực tài chính của ngân hàng thương mại là khả năng tài chính để ngân hàng thực hiện và phát triển các hoạt động kinh doanh một cách hiệu quả” [21].

Như vậy, năng lực tài chính của ngân hàng thương mại là việc sử dụng khả năng tài chính để tạo ra lợi nhuận ổn định và đạt được tỷ suất lợi nhuận cao hơn đối thủ khác hay cao hơn mức trung bình ngành, hoạt động kinh doanh an toàn, củng cố và khẳng định vị thế của mình trên thị trường.

Năng lực tài chính là một nhân tố ảnh hưởng hàng đầu tới năng lực quản trị rủi ro tín dụng trong các ngân hàng thương mại, cụ thể:

- Năng lực tài chính là một tiêu chí đánh giá, phản ánh khả năng ứng phó của ngân hàng trước các mức độ rủi ro có khả năng xảy ra. Điều này được thể hiện qua tiêu chí về Vốn chủ sở hữu và khả năng thanh toán của Ngân hàng. Khi rủi ro tín dụng xảy ra thì vốn chủ sở hữu chính là nhân tố đảm bảo, bù đắp cho rủi ro về mặt tổn thất tài chính có thể xảy ra. Nếu một ngân hàng có

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 11/05/2023