Các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp trên thị trường thường là các dịch vụ: tiền gửi, bảo lãnh, chuyển tiền, tư vấn, đại lý kinh doanh chứng khoán, tài trợ thương mại quốc tế, cho thuê két sắt; thanh toán, dịch vụ thẻ,…Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, sự xâm nhập của một loạt NHNNg đã đặt các ngân hàng trong nước trước sự cạnh tranh gay gắt, gây áp lực buộc phải thay đổi, bổ sung sản phẩm dịch vụ của mình mới thu hút được khách hàng. Như vậy có thể thấy, dịch vụ đa dạng làm tăng năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại, đồng thời, áp lực cạnh tranh đóng vai trò như một lực đẩy tạo ra sự phát triển hơn nữa chủng loại dịch vụ ngân hàng trong hiện tại và tương lai [26],[32].
b. Chất lượng dịch vụ và sự đổi mới
Một ngân hàng luôn đảm bảo chất lượng dịch vụ cao và luôn đổi mới trong hoạt động để tạo ra và cung ứng các sản phẩm dịch vụ mới thì sẽ có năng lực cạnh tranh cao hơn. Chất lượng dịch vụ cần có sự đồng nhất giữa các giao dịch, giữa các thời điểm và giữa nhân viên này với nhân viên khác, tránh trường hợp nhân viên này phục vụ tốt khách hàng còn nhân viên khác phục vụ tồi, hoặc cùng một nhân viên nhưng lúc phục vụ tốt, lúc không. Nếu không thực hiện được điều này thì sẽ dễ gây cho khách hàng cảm giác không hài lòng. Chất lượng dịch vụ được thể hiện bằng nhiều tiêu chí khác nhau như: độ tin cậy, mức độ đáp ứng, năng lực, dễ tiếp cận, thông tin [57].
Bên cạnh chất lượng dịch vụ, sự đổi mới cũng quan trọng không kém, ngân hàng cần có những sản phẩm, dịch vụ hay quy trình mới nhằm gia tăng giá trị cho khách hàng, tạo sự thuận tiện trong các giao dịch. Ngay trong những biểu mẫu mà khách hàng phải điền cũng cần có sự đổi mới theo hướng đơn giản, thuận tiện và dễ hiểu nhất đối với khách hàng. Trong thực tế trên thế giới có những quy định về việc sử dụng từ ngữ của các định chế tài chính trong đó nêu rõ việc sử dụng từ ngữ trong các giao dịch phải dễ hiểu và thông dụng, ít sử dụng ngôn từ mang tính chuyên môn cao. Ngoài ra, các đặc điểm hoặc yếu tố công nghệ trong sản phẩm cũng cần được cải tiến cho phù hợp với nhu cầu của khách hàng cũng như sự tiến bộ của khoa học công nghệ.
c. Lãi suất và phí
Đối với ngân hàng thương mại, giá chính là lãi suất và mức phí áp dụng cho các sản phẩm và dịch vụ của ngân hàng. Giá có vai trò quan trọng đối với các quyết định của khách hàng. Ở đây cũng cần phải phân biệt rõ lãi suất và phí áp dụng đối với thị trường đầu vào và thị trường đầu ra của ngân hàng.
Thị trường đầu vào là khi mà NHTM phải đi huy động vốn của người có tiền nhàn rỗi hoặc mua lại ngoại tệ của khách hàng có hoạt động xuất khẩu về thì lãi suất huy động phải cao hơn so với bình quân lãi suất trên thị trường thì mới có thể cạnh tranh, tương tự là giá mua ngoại tệ cũng phải cao hơn, thậm chí với một số các khoản thu tiền mặt thì NHTM được phép thu phí kiểm đếm theo quy định (0.033%/món) thì ngược lại phải giảm phí hoặc miễn phí kiểm đếm để lôi kéo khách hàng đang có tiền gửi từ ngân hàng khác về. Nếu như NHTM đang quan tâm đến khả năng mở rộng thị phần tăng trưởng huy động vốn thì cần phải đưa ra các mức lãi suất huy động cao hơn và phí ưu đãi hấp dẫn hơn cho các khách hàng. Tuy nhiên, điều này sẽ làm giảm thu nhập, thậm chí có thể khiến ngân hàng bị lỗ.
Với thị trường đầu ra là khi ngân hàng thương mại cho vay tiền ra, nếu ngân hàng chú trọng đến thu nhập thì phải đưa ra mức lãi suất và phí cao hơn so với bình quân thị trường để có thể đáp ứng được mục tiêu tăng thu nhập và điều này có thể dẫn đến làm cho ngân hàng bị mất khách hàng, giảm thị phần trong kinh doanh. Còn nếu muốn mở rộng thị phần khách hàng về tăng trưởng quy mô tín dụng thì lại phải giảm lãi suất cho vay ra và phí dịch vụ kèm theo.
Có thể bạn quan tâm!
- Các Lực Lượng Điều Khiển Cuộc Cạnh Tranh Trong Ngành
- Tiêu Chí Đo Lường Năng Lực Cạnh Tranh Của Ngân Hàng Thương Mại
- Tiêu Chuẩn Đánh Giá Sự Phát Triển Bền Vững Của Tổ Chức Tín Dụng
- Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại cổ phần quốc tế trên thị trường Việt Nam - 10
- Bài Học Kinh Nghiệm Rút Ra Đối Với Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam
- Diễn Biến Tổng Số Vốn Huy Động Của Các Nhóm Ngân Hàng
Xem toàn bộ 190 trang tài liệu này.
Giữa lãi suất huy động (đầu vào) và lãi suất cho vay (đầu ra) cũng luôn có sự mâu thuẫn với nhau. Nếu tăng lãi suất huy động để thu hút khách hàng đến gửi tiền thì buộc ngân hàng cũng phải tăng lãi suất cho vay để đảm bảo lợi nhuận hoặc nếu không sẽ bị giảm lợi nhuận, thậm chí chịu lỗ. Tuy nhiên, việc tăng lãi suất cho vay cũng làm hạn chế hoạt động tín dụng. Ngoài ra khi xác định lãi suất cho vay và phí dịch vụ Ngân hàng không chỉ quan tâm đến lãi suất huy động đầu vào mà cũng phải tính tới nhiều các chi phí hoạt động khác : lương cán bộ, quản lý, thuê văn phòng, điện, nước, khấu hao tài sản,…
Trên thực tế, các NHTM có một số giải pháp để giải quyết mâu thuẫn này. Ví dụ: lựa chọn khách hàng và khai thác tối đa “giá trị” của khách hàng (được hiểu là những lợi ích mà một khách hàng mang lại cho ngân hàng trong suốt cuộc đời của họ); phân nhóm khách hàng và áp dụng các mức phí và lãi suất khác nhau; áp dụng các chương trình tặng quà, khuyến mại,…cung cấp sản phẩm cho doanh nghiệp theo gói,…
Nhìn chung các năm về đây lãi suất đầu vào và đầu ra của Ngân hàng dễ bị san phẳng và chịu sự điều tiết của Chính phủ do đó cạnh tranh về giá thường được dùng
trong các ngành khác, không thực sự phù hợp đối với ngành ngân hàng, đồng thời các ngân hàng thương mại cổ phần như VIB hiện nay đều không hoàn toàn đi theo hướng cạnh tranh về giá mà theo hướng nâng cao chất lượng dịch vụ, tạo ra sự thuận tiện, nhanh chóng, đồng thời đa dạng các sản phẩm và tạo ra sự khác biệt (ưu thế) của ngân hàng mình. Bên cạnh đó là sự nỗ lực cố gắng tối ưu hóa các chi phí ở mức thực sự hợp lý để có được giá thành phù hợp, cạnh tranh và được người tiêu dùng chấp nhận.
2.2.5.3. Nhóm thị phần, khách hàng và thương hiệu
a. Thị phần và tốc độ tăng trưởng thị phần
Thị phần và tốc độ tăng trưởng của thị phần phản ánh sự phát triển và vị thế của một NHTM trong tương quan với các đối thủ cạnh tranh khác. Nếu chỉ tiêu này được giữ vững hoặc cao hơn so với kỳ trước, thể hiện NHTM đang có sức cạnh tranh và phát triển tốt. Tuy nhiên, nếu tăng trưởng quá nhanh, vượt quá khả năng kiểm soát lại là một điều nguy hiểm. Nhất là trong hoạt động tín dụng, nếu thu hút nhiều khách hàng yếu kém, thì sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận, từ đó giảm sút sức cạnh tranh.
Phát triển thị phần được xem xét như là kết quả của những nỗ lực của ngân hàng thương mại trong việc thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Thị phần và tốc độ tăng trưởng thị phần của ngân hàng thương mại được đo lường bằng các chỉ tiêu sau:
- Thị phần và tăng trưởng thị phần huy động vốn. Hoạt động huy động vốn có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với ngân hàng thương mại, là nguồn chủ yếu để thực hiện hoạt động kinh doanh và cũng là cơ sở để mở rộng kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh. Để đánh giá hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại người ta sử dụng các chỉ tiêu như sau:
Thị phần vốn huy
động của NHTM
Nguồn vốn huy động của NHTM
= Tổng nguồn vốn huy động của các TCTD
x 100%
Tốc độ tăng trưởng thị phần vốn huy động
Thị phần vốn huy động năm nay
= Thị phần vốn huy động năm trước
x 100%
- Thị phần và tăng trưởng thị phần cho vay. Năng lực cạnh tranh của NHTM về các hoạt động bên tài sản có, chủ yếu liên quan đến tài sản có sinh lời tức là hoạt động cho vay và đầu tư. Các NHTM Việt Nam mới chỉ cho vay dưới hình thức tín dụng là chủ yếu nên việc đánh giá thị phần cho vay thường thông qua các chỉ tiêu:
Dư nợ của NHTM
Thị phần cho vay của NHTM = x 100%
Tổng dư nợ của các TCTD
Tốc độ tăng trưởng thị phần cho vay của NHTM
Thị phần cho vay năm nay
= x 100%
Thị phần cho vay năm trước
Ngoài ra, việc mở rộng mạng lưới chi nhánh, văn phòng đại diện, phòng giao dịch sẽ giúp cho ngân hàng mở rộng phạm vi hoạt động ở nhiều khu vực, thu hút được nhiều vốn, tiếp cận được với nhiều khách hàng và tạo sự thuận lợi cho khách hàng khi sử dụng các dịch vụ ngân hàng. Danh tiếng và uy tín của NHTM cũng là một trong những nguồn lực vô hình rất quan trọng, tạo ra lợi thế to lớn trong cạnh tranh. Nếu một ngân hàng có danh tiếng và uy tín hơn đối thủ cạnh tranh thì nó có khả năng mở rộng thị phần, tăng doanh số, góp phần tăng lợi nhuận của mình.
Tìm kiếm và lựa chọn phân khúc thị trường khách hàng phù hợp với năng lực hiện có, các phân phúc ở đây gồm: thị trường khách hàng doanh nghiệp lớn, thị trường các khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ và thị trường bán lẻ (ngân hàng bán lẻ).
b. Khả năng duy trì khách hàng cũ và thu hút khách hàng mới .
Đây là hai chỉ tiêu quan trọng đánh giá sức thu hút của ngân hàng đối với khách hàng mới và khả năng xây dựng lòng trung thành của khách hàng. Khả năng thu hút được thể hiện qua tốc độ tăng trưởng số lượng khách hàng mới trong một thời kỳ, khả năng duy trì thể hiện ở tỷ lệ khách hàng thực hiện giao dịch lặp lại.
Hai chỉ tiêu này bổ sung cho nhau và luôn song hành với nhau. Tốc độ tăng trưởng số lượng khách hàng mới cao có thể được hiểu là sức hấp dẫn của ngân hàng lớn (trong điều kiện các yếu tố khác không đổi). Tuy nhiên, nó không hoàn toàn đồng nghĩa với việc tổng lượng khách hàng hoặc tổng lượng giao dịch tăng lên tương ứng bởi có thể có một số khách hàng chuyển sang giao dịch với ngân hàng khác. Tỷ lệ khách hàng thực hiện giao dịch lặp lại là một chỉ tiêu cho thấy lòng trung thành của khách hàng. Tỷ lệ này càng cao càng chứng tỏ càng có nhiều khách hàng trung thành với ngân hàng và ngược lại.
c. Thương hiệu
Thương hiệu ngân hàng có thể được hiểu là một thuật ngữ dùng trong hoạt động marketing, thể hiện tên giao dịch của một ngân hàng, được gắn với bản sắc riêng và uy tín, hình ảnh của chủ thể mang tên này nhằm gây dấu ấn sâu đậm đối với khách hàng
và phân biệt với các ngân hàng khác trong hoạt động kinh doanh tiền tệ-tín dụng và cung cấp các dịch vụ ngân hàng. Nói cách khác, thương hiệu của một ngân hàng chính là nhận thức của khách hàng về ngân hàng. Khách hàng có thể không cần biết ý nghĩa của một tên gọi, một biểu tượng của một ngân hàng nào đó nhưng nếu khi họ có nhu cầu về tài chính và họ đến ngân hàng một cách vô thức thì ngân hàng đó đã xây dựng được cho mình một thương hiệu vững chắc trong tâm trí khách hàng.
Qua thương hiệu của Ngân hàng cũng cho biết được uy tín của Ngân hàng đó, mục tiêu và đối tượng khách hàng tiềm năng mà Ngân hàng đó đang hướng tới. Uy tín của Ngân hàng được thể hiện ở quy mô hoạt động, sự chuyên nghiệp trong giao dịch, xử lý công việc, đa dạng về sản phẩm dịch vụ, giữ “chữ tín” với khách hàng, hoạt động hiệu quả, đáp ứng đầy đủ nhu cầu của khách hàng. Đối với khách hàng, việc thiết lập quan hệ với một Ngân hàng có thương hiệu trên thị trường sẽ giúp Doanh nghiệp được cung cấp dịch vụ chất lượng cao, được hỗ trợ thông tin và được đối tác kinh doanh đánh giá cao. Tuy nhiên, một thương hiệu Ngân hàng chỉ có giá trị khi nó là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố kể cả trong tác nghiệp lẫn điều hành mà hiệu quả cuối cùng là làm cho khách hàng hài lòng khi sử dụng dịch vụ của Ngân hàng trong điều kiện có nhiều tổ chức tín dụng khác cũng cung cấp dịch vụ đó với chi phí ngang bằng hoặc chưa cung cấp dịch vụ.
Thương hiệu có thể được đánh giá thông qua các giải thưởng hàng năm về thương hiệu do các tổ chức độc lập có uy tín trong và ngoài nước cấp hay thông qua giá trị thị trường của cổ phiếu. Một thương hiệu Ngân hàng tốt sẽ tạo sự tin cậy cho khách hàng, giúp chỉ rõ sự khác biệt, giá trị cốt lõi của Ngân hàng, giúp Ngân hàng tăng thị phần, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Đứng trên góc độ khách hàng, các yếu tố cấu thành thương hiệu ngân hàng như sau: Chất lượng sản phẩm dịch vụ cùng độ ổn định của nó, chủng loại sản phẩm dịch vụ, tiện ích sản phẩm dịch vụ, thái độ phục vụ của ngân hàng, danh tiếng và uy tín
2.2.5.4. Nhóm lợi nhuận
Nhóm lợi nhuận bao gồm lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh cơ bản và hoạt động đầu tư, là khả năng sinh lời của ngân hàng đo lường kết quả kinh doanh của ngân hàng - chỉ tiêu cụ thể nhất phản ánh quy mô, chất lượng và hiệu quả của quá trình hoạt động,
định hướng kinh doanh, năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Thông thường khi đánh giá khả năng sinh lời của ngân hàng, người ta dựa vào các tỷ suất sau: Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) và tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE).
Hai tỷ suất này đo lường mức độ sinh lời trên tổng tài sản bình quân và tổng vốn chủ sở hữu bình quân. Các tỷ lệ này càng cao, chứng tỏ khả năng sinh lời của ngân hàng trên một đồng giá trị tài sản hay một đồng vốn chủ sở hữu càng lớn. Tuy vậy, nếu tỷ lệ này quá lớn, ngân hàng có thể đang gặp rủi ro cao. ROE và ROA thường được sử dụng chung để đánh giá khả năng sinh lời của tổ chức tài chính.
ROA cho biết 1 đồng tài sản sinh ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Theo tiêu chuẩn Basel, nếu ROA ≥ 1, tức là ngân hàng đó được coi là có khả năng sinh lời cao.
ROE cho biết một đồng vốn tự có sẽ đem lại bao nhiêu lợi nhuận. Đây là chỉ tiêu rất quan trọng đối với các chủ sở hữu ngân hàng, bởi nó cho biết lợi nhuận mà chủ sở hữu nhận từ việc đầu tư vốn của mình là bao nhiêu. Theo tiêu chuẩn của Basel nếu ROE ≥ 15% được coi là tốt. Những ngân hàng thương mại có ROA và ROE cao thường được đánh giá cao hơn các ngân hàng thương mại khác, và vị thế của ngân hàng thương mại đó trong mắt khách hàng và những nhà đầu tư cũng lớn hơn. Vì vậy hiệu quả cao là chỉ tiêu tốt phản ảnh sức mạnh tài chính, tạo nên năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại.
2.3. Kinh nghiệm của ngân hàng nước ngoài và bài học rút ra đối với các ngân hàng thương mại Việt nam
2.3.1. K inh nghiệm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng nước ngoài.
Trong những năm về đây vấn đề xử lý nợ xấu, tái cơ cấu hệ thống ngân hàng luôn được nhắc đến trên các phương tiện thông tin đại chúng và trở thành nhiệm vụ lớn đòi hỏi cả hệ thống chính phủ, ngành ngân hàng và các ngành có liên quan tại Việt nam cùng phải chung tay để triển khai. Chính vì vậy trong mức độ hiểu biết và khả năng thu thập thông tin của minh, tác giả xin được nêu ra một phần kinh nghiệm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng nước ngoài để giải quyết các vấn đề nói trên đang xảy ra tại hệ thống ngân hàng Việt nam mà không đi vào cụ thể một ngân hàng thương mại nào. Vì bản thân hệ thống NHNNg cũng đã từng gặp phải trong lịch sử phát triển của chính họ.
2.3.1.1. Ngân hàng thương mại Trung Quốc
Vào năm 2004, khi Trung Quốc bắt đầu gia nhập WTO thì không khí nặng nề bao trùm toàn ngành ngân hàng, nhất là 10 ngân hàng thương mại lớn do lo lắng lĩnh vực ngân hàng - tài chính sắp phải mở cửa và họ phải cạnh tranh với các đối thủ sừng sỏ mạnh về tài chính, kinh nghiệm, trình độ quản lý,...ngay trên địa bàn của mình. Tính đến cuối năm 2004, tổng tài sản của hệ thống Ngân hàng Trung Quốc là 26.000 tỷ USD (United States Dollar), trong đó các ngân hàng thương mại quốc doanh chiếm khoảng 60% tổng tài sản và khoảng 80% thị phần cho vay. Hệ thống ngân hàng thương mại Trung Quốc tồn tại những yếu kém nổi bật như sau :
- Số vốn điều lệ nhỏ bé, tỷ lệ an toàn vốn thấp. Cuối năm 2004, chỉ có 7 ngân hàng đạt tỷ lệ an toàn vốn 8% [33]. Đến hết tháng 9/2012, tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng Trung Quốc là 18.7%, nhưng ở 4 NHTM nhà nước tỷ lệ này là 21.4%, trong khi đó tỷ lệ này ở các ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài chỉ là 2.7% [58].
- Trình độ quản lý yếu kém, nhiều NHTM thua lỗ. Cơ cấu tổ chức nặng nề, sự can thiệp của Nhà nước vào cơ cấu và công tác tổ chức của các ngân hàng rất lớn.
Sau 5 năm cải cách, ngành ngân hàng Trung Quốc đã có thể tự tin vào khả năng cạnh tranh của mình khi mở cửa toàn diện cho ngân hàng nước ngoài vào đầu tư kể từ 11/12/2006. Các giải pháp đã được Ngân hàng Trung Quốc thực hiện để nâng cao năng lực hoạt động của mình trong tiến trình hội nhập quốc tế [33].
* Kiên quyết xử lý và thanh toán các nợ xấu tồn đọng
Tháng 8/1998 tỷ lệ nợ xấu của 4 NHTM quốc doanh của Trung Quốc chiếm 25.5% tổng dư nợ cho vay của 4 NHTM này, đến hết năm 2004 là khoảng 13-14%, nhưng theo nghiên cứu của các giáo sư Học viện tài chính Thượng Hải thì tỷ lệ này là trên 18%. Giải pháp cơ bản để xử lý nợ xấu của 4 NHTM quốc doanh đều giao cho 4 công ty khai thác xử lý và thanh toán tài khoản xấu tới 1.400 tỷ Nhân dân tệ (NDT) tồn đọng trong các ngân hàng quốc doanh. Tiếp đến là tiến hành bán đấu giá nợ xấu cho các ngân hàng nước ngoài. Việc thanh toán và xử lý tài khoản xấu tồn đọng này đã đạt kết quả khả quan, từ năm 2003 tới năm 2005, nâng số ngân hàng có tỷ lệ an toàn vốn 8% trở lên từ 8 ngân hàng lên 53 ngân hàng. Tỷ lệ tài khoản xấu của các NHTM từ 17.23% giảm xuống còn 8.9%, tỉ lệ rủi ro giảm xuống còn 60%. Trong một thập kỷ qua, 4 ngân hàng quốc doanh lớn nhất Trung Quốc đã nhận hàng tỷ USD tiền hỗ trợ từ
chính phủ để cân đối tình hình tài chính. Kể từ năm 1998, chính phủ Trung Quốc đã bơm hơn 260 tỷ USD vào các ngân hàng trong nước để giúp giảm tỷ lệ nợ xấu ở các ngân hàng này từ 17.9% năm 2003 xuống còn 8.9% cuối tháng 4/2006.
* Thu hút các đối tác chiến lược vào Trung Quốc [33]
Chính phủ yêu cầu các ngân hàng thương mại quốc doanh tự hoạch định kế hoạch tăng vốn điều lệ để đạt tỷ lệ an toàn vốn theo quy định của hiệp nghị Basel là 8%. Các ngân hàng phải thông qua các nghiệp vụ, như tính toán tỷ lệ vốn theo quy định, thực hiện kiểm tra, giám sát và công khai thông tin để đưa rủi ro thị trường vào khung giám sát và quản lý vốn.
Với những quy định rõ ràng và minh bạch hơn, các ngân hàng Trung Quốc đã có sức thu hút các đối tác chiến lược vào Trung Quốc cùng tiến hành hợp tác đầu tư, như tháng 8/2006 HSBC đã đầu tư tới 14.5 tỉ NDT, chiếm 19.9% cổ phần vào ngân hàng giao thông Trung Quốc, tiếp đó là ngân hàng Mỹ, ngân hàng Singapore cũng lần lượt đầu tư vào Ngân hàng kiến thiết Trung Quốc. Đến nay các ngân hàng thương mại lớn khác của Trung Quốc như Ngân hàng Trung Quốc, Ngân hàng công thương đều thu hút được đầu tư từ các ngân hàng lớn của nước ngoài tiến hành kinh doanh trên nhiều lĩnh vực, nhất là phát hành thẻ tín dụng, dịch vụ tài chính cá nhân....
* Các giải pháp khác: Trung Quốc tiến hành xác định giá trị doanh nghiệp, thực hiện cổ phần hóa và niêm yết cổ phiếu ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán. Đồng thời Ngân hàng nhà nước phát động phong trào xây dựng văn hóa kinh doanh trong ngân hàng kết hợp với tăng lương hợp lý cho cán bộ công nhân viên ngân hàng, hoàn thiện các quy chế quản trị điều hành, cơ cấu tổ chức theo tiêu chuẩn quốc tế, đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ ngân hàng dựa trên công nghệ cao.
2.3.1.2. Các ngân hàng Nhật Bản [5],[10],[32],[36].
Nhật Bản có thể được coi là một cường quốc hàng đầu với nhiều ngân hàng lớn vào bậc nhất trên thế giới, cũng gặp phải những vấn đề nhất định như nợ khó đòi, chủ yếu do đầu tư vào bất động sản, tính trì trệ của toàn hệ thống. Vào cuối năm 1996, chính phủ Nhật Bản công bố một kế hoạch cải tổ sâu rộng ngành ngân hàng nói riêng và hệ thống tài chính nói chung nhằm xây dựng một hệ thống ngân hàng vững mạnh, mở cửa và hội nhập quốc tế, trong đó mục tiêu cải cách lĩnh vực ngân hàng gồm: Tăng cường trợ giúp khả năng thanh khoản của những ngân hàng gặp khó khăn, trợ giúp tài