Tiêu Chí Đo Lường Năng Lực Cạnh Tranh Của Ngân Hàng Thương Mại


Nếu đối thủ cạnh tranh mạnh hơn và quá nhiều thì năng lực cạnh tranh của ngân hàng đang xem xét sẽ thấp hơn một cách tương đối và ngược lại nếu đối thủ ít thì có thể cải thiện năng lực cạnh tranh bằng sự liên kết. Nếu ngân hàng rất mạnh so với đối thủ thì có thể thôn tính, ngược lại thì phải tìm sự bảo trợ của ngân hàng mạnh hơn. Để thắng lợi trong cạnh tranh với các đối thủ hiện tại trước hết đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải phân tích đối thủ cạnh tranh, nắm bắt các hành động đang và sẽ thực hiện của đối thủ trong tương lai. Các yếu tố cần phân tích đó là: chiến lược cạnh tranh hiện tại, mục tiêu tương lai và điểm mạnh điểm yếu của đối thủ.

2.2.3.3. Các yếu tố chủ quan thuộc về ngân hàng thương mại

Một ngân hàng được đánh giá là thành công khi nắm rõ các yếu tố tác động đến năng lực cạnh tranh và xác định rõ được tầm ảnh hưởng của nó đối với ngân hàng mình để có các biện pháp khai thác tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực nhằm xây dựng hình ảnh ngân hàng ngày càng tốt hơn.

Ngoài các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại như đã phân tích ở trên, các yếu tố khác có ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh là:

- Năng lực đào tạo và nội quy làm việc trong ngân hàng là một khâu quan trọng hình thành đội ngũ lao động có chất lượng cao. Một ngân hàng có nội quy làm việc tốt, khoa học, tác phong làm việc của từng cán bộ nhanh nhẹn sẽ giúp cho ngân hàng nâng cao uy tín với khách hàng và giảm chi phí vận hành.

- Truyền thống và các kinh nghiệm đã tích lũy của ngân hàng: truyền thống làm nên tên tuổi, uy tín. Hơn nữa, do ngân hàng là ngành kinh doanh dựa nhiều vào niềm tin của khách hàng, nên một ngân hàng có truyền thống kinh doanh hiệu quả, có kinh nghiệm trong lĩnh vực hoạt động, có nhiều thành công trong quá khứ, có những tiêu chuẩn hành nghề nghiêm túc đã được thực tế xác nhận sẽ khiến khách hàng an tâm hơn khi giao phó tài sản cho họ, nhờ đó nâng cao được khả năng cạnh tranh của mình.

- Cơ sở vật chất - kỹ thuật của ngân hàng ảnh hưởng đến khả năng quảng bá sức mạnh của ngân hàng. Cơ sở vật chất của ngân hàng chỉ được hình thành từ vốn tự có nên cơ sở vật chất khang trang tự nó đã cho khách hàng thấy khả năng tài chính tốt của họ. Hơn nữa, cơ sở vật chất tốt cho phép tạo thêm các tiện nghi cho khách hàng, nhất là khách hang VIP, khi họ đến giao dịch, qua đó tăng mức độ thỏa mãn của khách


hàng. Ngược lại các ngân hàng giao dịch trong các phòng giao dịch chật hẹp, ít tiện nghi khiến khách cảm nhận sự bất tiện và rủi ro quá lớn khi trao tài sản cho họ.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 190 trang tài liệu này.

- Các mối quan hệ của ngân hàng. Mỗi ngân hàng, ngoài quan hệ với khách hàng, đối tác còn giữ các mối quan hệ hỗ trợ và hợp tác khác cũng làm ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh.

2.2.3.4. Các yếu tố thuộc về khách quan

Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại cổ phần quốc tế trên thị trường Việt Nam - 7

* Các nhân tố trong nước

- Nhân tố chính trị: Một thể chế chính trị ổn định và khung khổ pháp luật rõ ràng sẽ là cơ sở đảm bảo cho các ngân hàng thương mại hoạt động kinh doanh thuận lợi, công bằng, do đó năng lực cạnh tranh được đánh giá khách quan, công khai, minh bạch. Một thể chế chính trị không ổn định, pháp luật không đầy đủ, hiệu lực thấp sẽ khiến các ngân hàng thương mại đi vào cạnh tranh không lành mạnh, năng lực cạnh tranh thực sự không đem lại thành công. Ngoài ra, nhân tố chính trị cũng tác động đến năng lực cạnh tranh theo hướng tăng ảnh hưởng của sự thích nghi, của sự nhanh nhạy nắm bắt các quan hệ chính trị để làm chỗ dựa trong cạnh tranh. Nếu các ngân hàng thương mại không kịp thời thích ứng với các thể chế và pháp luật và nắm bắt cơ hội do thể chế chính trị tạo ra để vạch ra phương hướng kinh doanh cho phù hợp thì sẽ giảm ngay khả năng cạnh tranh của mình.

- Các nhân tố kinh tế bao gồm tốc độ tăng trưởng kinh tế, lạm phát, lãi suất,…ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại và làm xáo trộn tương quan sức mạnh cạnh tranh giữa các ngân hàng.

Khi nền kinh tế ở giai đoạn tăng trưởng cao, thu nhập của dân cư tăng và nhu cầu sử dụng các tiện ích từ sản phẩm dịch vụ ngân hàng cũng tăng lên, thì các hoạt động mạo hiểm của ngân hàng sẽ ít bộc lộ và mức độ gây tác hại có thể được trung hòa bằng các hoạt động bổ sung khác, khi đó các ngân hàng yếu kém chưa bị loại bỏ. Ngược lại khi nền kinh tế bị sa sút, suy thoái dẫn đến giảm tiêu dùng, giảm đầu tư toàn xã hội, các khách hàng sẽ ít sử dụng các sản phẩm dịch, hoạt động của ngân hàng bị co lại, thu nhập từ các hoạt động khác không đủ bù cho các hoạt động thiếu thận trọng, lúc này các ngân hàng thương mại kém năng lực cạnh tranh mới bộc lộ rõ ràng.


Cũng như vậy, lạm phát cao khiến ngân hàng thương mại hoạt động khó khăn từ nhiều phía như lãi suất cao khó huy động, khó cho vay, rủi ro không thu hồi được vốn cao khiến tương quan năng lực cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại bị bóp méo. Bởi lẽ, do mức tăng giá giữa các ngành không đều nên tương quan hiệu quả giữa các dự án vay vốn thay đổi từ chỗ có hiệu quả đến kém và không hiệu quả nên người vay vốn không trả được nợ, khiến ngân hàng thương mại bị thay đổi năng lực cạnh tranh không do nguyên nhân từ họ.

Lãi suất cũng ảnh hưởng đến tương quan cạnh tranh, nếu lãi suất bị ngân hàng trung ương khống chế thì dù có khả năng đáp ứng vốn cho các dự án có lãi suất ngoài khung sẽ không thể triển khai được, do vậy các ngân hàng tự nhiên bị gọt bớt năng lực cạnh tranh,…

* Các nhân tố quốc tế

- Mối quan hệ hợp tác giữa các nước là một nhân tố rất quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh ngân hàng và tương quan giữa các ngân hàng trong nước. Nếu mối quan hệ đối ngoại tốt thì hoạt động hợp tác giữa ngân hàng thương mại các nước sẽ thuận lợi hơn trong giao dịch, chuyển giao công nghệ,…và ngược lại. Đồng thời, khi một ngân hàng hợp tác với ngân hàng nước ngoài, năng lực cạnh tranh trong nước của ngân hàng này sẽ được cải thiện hơn các ngân hàng không hoặc chưa hợp tác .

- Ở môi trường quốc tế, lĩnh vực ngân hàng còn bị ảnh hưởng không nhỏ của xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa, đã đẩy mạnh thương mại và đầu tư quốc tế, làm gia tăng cơ hội kinh doanh quốc tế, tăng áp lực cạnh tranh quốc tế đối với ngân hàng. Các thành tựu khoa học công nghệ được áp dụng rộng rãi, chuyển giao công nghệ thuận lợi làm cho các ngân hàng có thể tiếp thu được các thành tựu khoa học tiên tiến đồng thời các ngân hàng phải hoạt động dựa trên những đòi hỏi yêu cầu kỹ thuật ngày càng cao hơn. Chính những điều này đã tạo nên một môi trường cạnh tranh gay gắt hơn buộc các ngân hàng phải không ngừng đổi mới thì mới có thể đứng vững và phát triển. Xuất hiện đối thủ cạnh tranh là các ngân hàng nước ngoài không chỉ làm thị phần của các ngân hàng trong nước thu hẹp mà còn tạo ra áp lực buộc các ngân hàng trong nước phải đổi mới để có khách hàng. Hơn nữa, xuất hiện một đối thủ cạnh tranh mạnh cũng khiến các ngân hàng trong nước co cụm lại với nhau.


2.2.4. Mô hình SWOT trong phân tích năng lực cạnh tranh



Mô hình phân tích SWOT là một công cụ rất hữu dụng cho việc phân tích năng lực cạnh tranh của một tổ chức kinh doanh, qua đó ra quyết định trong mọi tình huống. Viết tắt của 4 chữ Strengths (điểm mạnh), Weaknesses (điểm yếu), Opportunities (cơ hội) và Threats (nguy cơ), SWOT cung cấp một công cụ phân tích chiến lược, rà soát và đánh giá vị trí, định hướng của tổ chức kinh doanh hay của một đề án kinh doanh. SWOT phù hợp với làm việc và phân tích theo nhóm, được sử dụng trong việc lập kế hoạch kinh doanh, xây dựng chiến lược, đánh giá đối thủ cạnh tranh, tiếp thị, phát triển sản phẩm và dịch vụ...Strengths và Weaknesses là các yếu tố nội tại của tổ chức còn Opportunities và Threats là các nhân tố tác động bên ngoài, SWOT cho phép phân tích các yếu tố khác nhau có ảnh hưởng tương đối đến khả năng cạnh tranh của tổ chức. SWOT thường được kết hợp với PEST (Political, Economic, Social, Technological analysis), mô hình phân tích thị trường và đánh giá tiềm năng thông qua yếu tố bên ngoài trên các phương diện chính trị, kinh tế, xã hội và công nghệ. Phân tích theo mô hình SWOT là việc đánh giá các dữ liệu được sắp xếp theo dạng SWOT dưới một trật tự logic giúp người đọc hiểu được cũng như có thể trình bày và thảo luận để đi đến việc ra quyết định dễ dàng hơn.

* Các yếu tố bên trong cần phân tích có thể là: Văn hóa và Hình ảnh tổ chức; Cơ cấu tổ chức, Ban lãnh đạo, Khả năng sử dụng các nguồn lực, Kinh nghiệm đã có,


Hiệu quả hoạt động, Năng lực hoạt động, Danh tiếng thương hiệu, Thị phần, Nguồn tài chính, Hợp đồng chính yếu, Bản quyền và bí mật thương mại,

* Các yếu tố bên ngoài cần phân tích có thể là: Khách hàng, Đối thủ cạnh tranh, Xu hướng thị trường, Nhà cung cấp, Đối tác, Thay đổi xã hội, Công nghệ mới, Môi truờng kinh tế, Môi trường chính trị và pháp luật.

Chất lượng phân tích của mô hình SWOT phụ thuộc vào chất lượng thông tin thu thập được. Thông tin cần tránh cái nhìn chủ quan từ một phía, nên tìm kiếm thông tin từ mọi phía: ban giám đốc, khách hàng, đối tác, nhà cung cấp, đối tác chiến lược, tư vấn... SWOT cũng có phần hạn chế khi sắp xếp các thông tin với xu hướng giản lược. Điều này làm cho nhiều thông tin có thể bị gò ép vào vị trí không phù hợp với bản chất vấn đề. Nhiều đề mục có thể bị trung hòa hoặc nhầm lẫn giữa hai thái cực S-W và O-T do quan điểm của nhà phân tích.

2.2.5. Tiêu chí đo lường năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại

Do hoạt động của NHTM là loại hình kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ tài chính nên tiêu chí đo lường năng lực cạnh tranh có sự khác biệt. Tác giả xin tổng hợp các tiêu chí đo lường năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại theo nhóm như sau:

2.2.5.1. Nhóm sức mạnh nội tại

a. Năng lực tài chính

Khái niệm năng lực tài chính của ngân hàng thương mại khác với năng lực tài chính của một doanh nghiệp. Năng lực tài chính của một Doanh nghiệp là nguồn lực tài chính của bản thân DN, là khả năng tạo tiền, tổ chức lưu chuyển tiền hợp lý, đảm bảo khả năng thanh toán thể hiện ở quy mô vốn, chất lượng tài sản và khả năng sinh lời… đủ để đảm bảo và duy trì hoạt động kinh doanh được tiến hành bình thường. Còn năng lực tài chính của một ngân hàng thương mại là khả năng tạo lập nguồn vốn và sử dụng vốn phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng, thể hiện ở quy mô vốn tự có, tổng tài sản, sự tăng trưởng nguồn vốn và hiệu quả sử dụng vốn.

* Tổng tài sản: Bao gồm tiền mặt, chứng từ có giá trị ngắn hạn, đầu tư chứng khoán, cho vay và các tài sản khác

* Vốn tự có: Vốn tự có của ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ ngân hàng tạo lập được thuộc sở hữu riêng của ngân hàng thông qua góp vốn của các chủ sở


hữu hoặc hình thành từ kết quả kinh doanh. Theo hiệp ước Basel, để đảm bảo yêu cầu an toàn, vốn tự có của ngân hàng thương mại phải đạt tối thiểu 9% tổng tài sản có của ngân hàng đó.

Tuy vốn tự có tuy chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng, nhưng có vai trò quyết định tới sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Tính chất quyết định này thể hiện qua các khía cạnh sau:

- Vốn tự có đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng bởi nguồn vốn này ngân hàng thương mại chủ động hoàn toàn và có thể được sử dụng để bù đắp những thiệt hại trong hoạt động kinh doanh, tạo niềm tin của khách hàng, đóng vai trò vật bảo đảm đối với người gửi tiền. Ngân hàng có vốn chủ sở hữu lớn sẽ có khả năng đền bù cho khách hàng ở quy mô lớn khi gặp rủi ro cũng như dễ dàng vượt qua rủi ro.

- Vốn tự có tham gia vào việc điều chỉnh các hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại theo hướng thay đổi quy mô, cơ cấu tài sản ngân hàng và điều chỉnh phạm vi cho vay đối với một khách hàng (ví dụ, pháp luật nước ta qui định mức dư nợ tối đa của một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của mỗi NHTM) [48].

- Vốn tự có giới hạn qui mô đầu tư vào tài sản cố định, là cơ sở để tổ chức mọi hoạt động kinh doanh, tạo ra điều kiện cần thiết về cơ sở vật chất. Quy mô vốn tự có là điều kiện cho phép ngân hàng thương mại thực hiện các việc mở chi nhánh, văn phòng nước ngoài,…

Với những vai trò trên có thể nói, vốn tự có là cái đệm chống đỡ rủi ro cho ngân hàng. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, ngân hàng nào có mức vốn tự có thấp dễ gặp phải rủi ro, đổ vỡ hơn so với các ngân hàng có mức vốn tự có lớn, qui mô hoạt động rộng. Đặc biệt, ở các nước đang phát triển, khi mở cửa hội nhập, thường tỷ trọng vốn tự có của các ngân hàng trong nước so với các ngân hàng nước ngoài là rất thấp. Để nâng sức cạnh tranh các ngân hàng này thường phải có kế hoạch tăng trưởng vốn của mình. Vốn tự có của ngân hàng thương mại gồm hai phần cơ bản [52].

- Vốn cấp 1: gồm vốn điều lệ, các quỹ dự trữ và lợi nhuận không chia. Vốn cấp 1 được dùng làm căn cứ để xác định giới hạn mua cổ phiếu, đầu tư vào tài sản cố định của tổ chức tín dụng.

- Vốn cấp 2: gồm giá trị tăng thêm của tài sản cố định và giá trị tăng thêm của các loại chứng khoán đầu tư được định giá lại theo quy định của pháp luật, dự phòng


chung, các trái phiếu chuyển đổi và một số công cụ nợ khác thỏa mãn điều kiện do NHNN quy định.

* Sự tăng trưởng của nguồn vốn

Sự tăng trưởng của nguồn vốn là một trong những chỉ tiêu đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh, năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Sự tăng trưởng của nguồn vốn còn quyết định khả năng cho vay, uy tín khách hàng, quản trị rủi ro thanh khoản,… và phản ánh quy mô hoạt động của ngân hàng.

Nguồn vốn của ngân hàng thương mại, ngoài vốn chủ sở hữu, còn bao gồm vốn huy động, vốn đi vay và một số nguồn vốn đặc biệt khác, trong đó nguồn vốn tiết kiệm của dân cư được coi là có chất lượng nhất, do có tính nhạy cảm thấp, ổn định và kỳ hạn dài. Có thể tăng vốn thông qua phát hành cổ phiếu – trái phiếu, bán cổ phần cho đối tác - cổ đông chiến lược, tăng vốn từ các nguồn nội bộ. Vốn vay ngân hàng nhà nước, vay tổ chức tín dụng khác, ,…cũng là những nguồn quan trọng.

Khả năng tăng trưởng nguồn vốn huy động được quy định bởi khả năng ngân hàng sử dụng các sản phẩm dịch vụ, các công cụ huy động vốn một cách có hiệu quả, xác suất thành công cao, quy mô hoạt động, sự hình thành và phát triển, công nghệ, uy tín với khách hàng, marketing,…Khả năng huy động lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố như khả năng mở rộng mạng lưới hoạt động, khả năng trong việc tiếp cận với thị trường tiền gửi và mức độ hấp dẫn của công cụ huy động,…Những ngân hàng thương mại mới thành lập ở các nền kinh tế chuyển đổi thường có tốc độ tăng trưởng nguồn vốn cao hơn trong thời gian đầu.

Về mặt lý thuyết và thực tiễn đều chỉ ra rằng, để có thể tiến hành các hoạt động đầu tư, vốn là yếu tố tiên quyết hàng đầu, đặc biệt quan trọng, không chỉ phục vụ cho hoạt động đầu tư mà còn phục vụ cho các nghiệp vụ kinh doanh cơ bản của ngân hàng và phòng chống rủi ro. Tuy nhiên, phương thức huy động vốn thế nào, huy động từ nguồn nào để tiến hành các hoạt động đầu tư cần phải cân nhắc kỹ lưỡng và có kế hoạch cụ thể. Đối với ngân hàng, bản thân việc tăng vốn đã thể hiện sự tăng thêm của năng lực tài chính, vị thế cạnh tranh. Nhưng việc tăng vốn và sử dụng vào hoạt động đầu tư mới khiến cho năng lực tài chính và vị thế cạnh tranh của ngân hàng thực chất và bền vững hơn.


* Hiệu quả sử dụng vốn: Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của một ngân hàng thương mại người ta sử dụng 2 tiêu chí phân tích là khả năng sinh lời và mức độ rủi ro của ngân hàng (hệ số an toàn vốn và chất lượng tín dụng).

- Khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại gắn liền với chất lượng tài sản và hiệu quả sử dụng tài sản của ngân hàng thương mại, là thước đo đánh giá tình hình kinh doanh và mức độ phát triển của 1 ngân hàng thương mại. Mức sinh lời được phân tích qua chỉ tiêu thu nhập sau thuế trên tổng tài sản (ROA); chỉ tiêu thu nhập sau thuế trên vốn chủ sở hữu (ROE) hoặc chỉ tiêu lợi nhuận ròng trên doanh thu.

Tỷ lệ thu nhập trên tổng tài sản ROA (Return on Total Assets), tỷ lệ này cho biết khả năng tạo thu nhập từ tài sản tức là hiệu quả kinh doanh của một đồng tài sản. ROA lớn chứng tỏ hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng tốt, cơ cấu tài sản hợp lý, Ngân hàng có sự điều hòa linh hoạt giữa các khoản mục tài sản.


Tỷ lệ thu nhập trên vốn chủ sở hữu ROE (Return on Common Equyty), tỷ lệ này đo lường hiệu quả sử dụng của một đồng vốn chủ sở hữu, cho biết lợi nhuận tạo ra từ 1 đơn vị tiền vốn chủ sở hữu. ROE quá lớn so với ROA chứng tỏ vốn chủ sở hữu của Ngân hàng chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn.


Theo tiêu chuẩn Basel, nếu ROA ≥ 1, tức là ngân hàng đó được coi là có khả năng sinh lời cao. ROE cho biết một đồng vốn tự có sẽ đem lại bao nhiêu lợi nhuận cho ngân hàng. Đây là chỉ tiêu rất quan trọng đối với các chủ sở hữu ngân hàng, bởi nó cho biết lợi nhuận mà chủ sở hữu nhận từ việc đầu tư vốn của mình là bao nhiêu. Theo tiêu chuẩn của Basel nếu ROE ≥ 15% được coi là tốt.

Một lưu ý khác là ở hầu hết các thị trường, chỉ số ROE nằm ở ngưỡng từ 10%- 20% là chấp nhận được. Tuy nhiên, khi xem xét chung đến cùng một yếu tố lạm phát và lãi suất theo cùng một đồng nội tệ, ngưỡng này có thể thay đổi. Ở thời kỳ kinh tế tăng trưởng, chỉ số ROE trung bình của tất cả các công ty trong cùng một thị trường có thể cao đến 20%, và những thời điểm kinh tế suy thoái, ROE trung bình có thể giảm

Xem tất cả 190 trang.

Ngày đăng: 09/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí