không nhiều như các khách hàng lớn khác, đồng thời họ có tài sản đảm bảo an toàn cho ngân hàng khi hoạt động kinh doanh gặp khó khăn không có khả năng trả nợ.
Thực tế theo thống kê tại VIB thì số lượng khách hàng doanh nghiệp đã mở Tài khoản là gần 35.000 doanh nghiệp, tuy nhiên mới chỉ có khoảng 5.000 doanh nghiệp có hoạt động thực sự và thường xuyên qua VIB, trong đó số lượng các khách hàng SME có đến 90%. Như vậy cơ hội để tiếp tục khai thác nhóm khách hàng hiện hữu và đánh thức các khách hàng “ngủ quên” là rất lớn và VIB cần phải chú trọng hơn nữa trong việc đầu tư khai thác nhóm khách hàng này.
Qua các phân tích ở trên chúng ta có thể thấy rõ vai trò và tầm quan trọng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng lên và tiềm năng phát triển của khu vực này rất rộng lớn. Bởi vì cá doanh nghiệp vừa và nhỏ đang là động lực cho phát triển kinh tế, tạo công ăn việc làm và huy động nguồn vốn trong nước…Vì những lý do đó việc khuyến khích, hỗ trợ phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ là giải pháp quan trọng để thực hiện thành công chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế nước ta.
4.2.6. Lựa chọn phát triển các sản phẩm để tập trung đầu tư chuyên môn hoá sâu, tránh tình trạng triển khai tràn lan rất nhiều sản phẩm không tạo ra sự cạnh tranh chuyên biệt và triển khai phương thức bán gói sản phẩm dịch vụ tiện ích theo chuỗi cung ứng vừa đảm bảo quản trị rủi ro đồng thời kiểm soát tối ưu hóa lợi nhuận
Giải pháp này tiếp tục tập trung vào cải tiến nhóm sản phẩm dịch vụ và đảm bảo kiểm soát tối đa hóa hiệu quả kinh doanh theo yêu cầu chỉ tiêu lợi nhuận đề ra.
VIB tăng cường đầu tư nhằm khác biệt hóa sản phẩm dịch vụ theo hướng nhằm vào các phân khúc sản phẩm có tính khác biệt và phù hợp với năng lực hiện có.
Tạo sự khác biệt bằng cách đầu tư xây dựng hệ thống quản trị quan hệ khách hàng hiệu quả, nắm bắt nhanh nhất thông tin, phản hồi của khách hàng để có những sản phẩm đáp ứng kịp thời nhất, phù hợp nhất, tạo sự cá biệt tới từng đối tượng khách hàng. Chiến lược đầu tư nhằm tạo sự khác biệt hoá sản phẩm cũng là chiến lược tốt nhất để củng cố, tạo dựng thương hiệu, cải thiện vị thế cạnh tranh của ngân hàng.
Thực hiện chiến lược trọng tâm hoá khách hàng, ngân hàng phải tạo ra cho các sản phẩm những đặc tính phù hợp với nhu cầu của nhóm khách hàng mình đang theo đuổi. Để làm được điều này, chiến lược đầu tư của VIB phải thực hiện được các công việc:
Có thể bạn quan tâm!
- Định Hướng Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Trong Xu Thế Hội Nhập Của Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Quốc Tế Việt Nam
- Ảnh Hưởng Môi Trường Cạnh Tranh Không Lành Mạnh Trong Hoạt Động Ngân Hàng Ở Việt Nam Tác Động Đến Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Quốc Tế
- Định Hướng Và Mục Tiêu Của Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Quốc Tế Việt Nam [21],[22]
- Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại cổ phần quốc tế trên thị trường Việt Nam - 23
Xem toàn bộ 190 trang tài liệu này.
- Nghiên cứu kỹ thị trường để có các đánh giá đầy đủ, chính xác.
- Dự báo những thay đổi trong nhu cầu của khách hàng.
- Lựa chọn phân đoạn thị trường mà mình có thế mạnh, phù hợp với công nghệ và kinh nghiệm của mình, không né tránh nhưng không quá tập trung vào những phân đoạn thị trường đã có quá nhiều ngân hàng tham gia, nhiều ngân hàng có thế mạnh.
Sản phẩm trọng tâm mà VIB nên chú trong đầu tư chuyên sâu : Sản phầm về tài trợ thương mại xuất nhập khẩu, giải pháp về quản lý dòng tiền hoạt động, tín dụng ưu đãi xuất nhập khẩu, tín dụng vào các ngành hàng hàng tiêu dùng thiết yếu (xăng dầu, gas khí đốt, thực phẩm, đồ uống, dược phẩm, phân bón, thuốc thú y, dịch vụ,…), tín dụng tiêu dùng cá nhân (mua nhà, xe ô tô, thẻ,…).
Cùng với sự đa dạng về sản phẩm cần tập trung nghiên cứu thêm các giải pháp về sản phẩm chuỗi để có thể cung cấp và đáp ứng một cách toàn diện tất cả các nhu cầu của khách hàng, ví dụ : cho vay để thu gom – dự trữ - chế biến – xuất khẩu; cho vay dự án Bất động sản, khu công nghiệp với chủ đầu tư quản lý dự án - nhà thầu, đơn vị cung cấp nguyên liệu để thực hiện dự án - người tiêu dùng; cho vay chuỗi cung ứng nhà sản xuất và hệ thống tiêu thụ. Từ việc nghiên cứu và bán sản phẩm theo chuỗi tiếp tục tiến hành mở rộng bán gói sản phẩm kèm theo: Thẻ, quản lý dòng tiền gửi có kỳ hạn + không kỳ hạn, trả lương qua Tài khoản,..
Với việc bán sản phẩm trọng tâm thế mạnh kết hợp triển khai theo chuỗi và cung cấp gói sản phẩm đảm bảo mọi giao dịch và chi tiêu của khách hàng sẽ tập trung chủ yêu về giao dịch chính VIB sẽ là cơ sở để gia tăng thêm các phần thu về phí, góp phần đẩy tỷ lệ thu phí phi tín dụng lên, có nghĩa là gia tăng được lợi nhuận và hiệu quả hơn, thay vì phải tập trung tìm kiếm lợi nhuận từ hoạt động tín dụng tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Kênh phân phối, bán hàng tạo điều kiện thuận lợi và phù hợp nhất thông qua việc tăng cường đầu tư cho các hoạt động marketing, lựa chọn kênh quảng cáo phù hợp với
chiến dịch quảng cáo, xúc tiến sản phẩm hướng vào thu hút sự quan tâm của nhóm khách hàng mục tiêu.
Tiếp tục phát triển đa dạng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng tiện ích và hiện
đại có chất lượng, thương hiệu và giá trị cao trên cơ sở lợi thế của VIB
Cùng với việc hiện đại hoá công nghệ, các ngân hàng thương mại cần có chính sách khai thác công nghệ hiệu quả thông qua việc phát triển những sản phẩm và nhóm sản phẩm dựa trên công nghệ cao nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh về sản phẩm, dịch vụ, tạo ra sự đa dạng trong lựa chọn sản phẩm và tăng cường bán chéo sản phẩm đến khách hàng. Đồng thời, việc phát triển đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ cũng sẽ góp phần phân tán và hạn chế bớt rủi ro trong quá trình hoạt động.
Phải xác định những dịch vụ cốt yếu của mình và tập trung nhiều hơn vào phát triển các dịch vụ, phải quan tâm tới khả năng tích hợp đồng bộ và hiệu quả đầu tư. Để hỗ trợ cho hoạt động thiết kế các sản phẩm mới, VIB cần phải thực hiện được phân đoạn thị trường mục tiêu của mình, tránh việc cạnh tranh thiếu định hướng, phân đoạn khách hàng hợp lý và chính xác sẽ giúp ngân hàng tập trung được nguồn lực, tiết kiệm chi phí và nâng cao chất lượng dịch vụ cho khách hàng của mình.
Song song với việc phát triển các sản phẩm mới để thu hút khách hàng, xây dựng quy trình tác nghiệp chặt chẽ thì việc duy trì mối quan hệ với khách hàng cũng vô cùng quan trọng đối với mục tiêu cải thiện năng lực cạnh tranh. VIB cần phải đầu tư một cách tổng thể cho hệ thống phần mềm quản trị dữ liệu khách hàng, các chính sách khách hàng, chính sách sản phẩm, marketing, thiết lập các kênh tương tác giữa ngân hàng và khách hàng tạo sự gắn bó, trung thành .
Đảm bảo kiểm soát tối ưu hiệu quả kinh doanh thông qua nhóm lợi nhuận. Việc này được cụ thể hóa bằng cách tập trung triển khai bán các sản phẩm theo gói
4.3. Kiến nghị
4.3.1. Hoàn thiện môi trường pháp lý và chính sách có liên quan trực tiếp đến cạnh tranh của Ngân hàng thương mại trong điều kiện hội nhập tiếp tục diễn ra mạnh mẽ
Ở tầm kinh tế vĩ mô, khi nền kinh tế và lĩnh vực tài chính mở cửa hơn và hội nhập với nền kinh tế thế giới, cả nền kinh tế nói chung và khu vực tài chính ngân hàng nói riêng sẽ dễ chịu ảnh hưởng của những cú sốc bên ngoài. Kinh nghiệm ở các nước cho thấy tự do hóa dịch vụ tài chính mà không tiến hành cải tổ các quy định về thể chế
sẽ rất dễ dẫn đến khủng hoảng tài chính. Các quy định cần phải được thiết lập một cách thận trọng, tạo một môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức tài chính. Chính phủ và các cơ quan quản lý đóng vai trò quan trọng trong việc thiết lập các nguyên tắc, tổ chức các hoạt động hỗ trợ, giám sát để đảm bảo quá trình cạnh tranh giữa các ngân hàng diễn ra lành mạnh.
Trong điều kiện hiện nay, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho các hoạt động của hệ thống ngân hàng nhằm tạo lập hành lang pháp lý phù hợp với thông lệ quốc tế và hoàn cảnh thực tiễn của Việt nam là vấn đề quan trọng. Điều này sẽ giúp cho các ngân hàng hoạt động an toàn, hiệu quả và cạnh tranh lành mạnh. Ngân hàng nhà nước phối hợp với Bộ tài chính và các cơ quan liên quan xem xét ra các quy định, chính sách đảm bảo thận trọng, minh bạch, tạo sự tin tưởng cho các ngân hàng.
Rà soát tổng thể và đối chiếu toàn bộ các quy định và văn bản pháp luật hiện hành, tính tương thích với các cam kết và yêu cầu của các hiệp định quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng tài chính. Cần phải phát hiện ngay ra những mâu thuẫn giữa hệ thống pháp lý trong nước với các cam kết quốc tế để sửa đổi và cập nhập hệ thống pháp lý hiện hành nhằm đảm bảo hệ thống hoạt động trong trong môi trường nhất quán, ổn định, đảm bảo sự tương tác và phù hợp với các luật khác cũng như bắt kịp các thông lệ quốc tế như quy định về tỷ lệ an toàn vốn, phòng ngừa và giải quyết rủi ro, tỷ lệ dự trữ bắt buộc,…Việc sửa đổi, xây dựng các quy định, chính sách và cơ chế mới phải phù hợp với lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế về tài chính ngân hàng, không kéo dài thời gian cũng như có những biện pháp bảo hộ các ngân hàng trong nước trái với cam kết, đảm bảo giải quyết các vấn đề phát sinh mới của thị trường như quy định về đảm bảo an toàn của các giao dịch điện tử, về các dịch vụ phái sinh (hợp đồng tương lai, quyền chọn, hoán đổi,…), dịch vụ ngân hàng qua biên giới,…
NHNN đẩy mạnh hơn nữa, thể chế hóa việc áp dụng các chuẩn mực và thông lệ quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng vào hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt nam. Cần triệt để xóa bỏ các văn bản, thủ tục có tính chất bảo hộ và phân biệt đối xử giữa các ngân hàng nhằm đảm bảo cạnh tranh lành mạnh, đó cũng là động lực thúc đẩy các ngân hàng tăng cường năng lực cạnh tranh của mình. Chính phủ và các cơ quan quản lý ngân hàng cần có những cải tổ mạnh mẽ hơn nữa trong việc quản lý các NHTM có vốn nhà nước nhằm tạo ra một môi trường kinh doanh mang tính thị trường hơn.
Trong điều kiện mở cửa và hội nhập, việc quản lý ngành ngân hàng càng đòi hỏi sự cân bằng khéo léo. Cải cách ngành tài chính không có nghĩa là để thị trường quyết tất cả mọi thứ, hay tư nhân hóa tất cả, hay mở cửa cho các ngân hàng nước ngoài, các dòng vốn nước ngoài tự do hoạt động mà không có một hệ thống kiểm soát chặt chẽ.
Các cơ quan quản lý nhà nước cần hỗ trợ hoạt động cho hiệp hội ngân hàng và nâng cao vai trò của hiệp hội. Hiệp hội ngân hàng đại diện cho tiếng nói của các ngân hàng, có vai trò bảo vệ lợi ích của các thành viên trong đối thoại với chính phủ, trong vận động hành lang ở các cuộc đàm phán thương mại quốc tế và trong việc chia sẻ thông tin giữa các thành viên,…Vì thế chính phủ và các cơ quan quản lý ngân hàng nên để hiệp hội tham gia vào quá trình xây dựng chính sách, có cơ chế để đảm bảo hiệp hội là tiếng nói công bằng của cả các ngân hàng lớn và các NHCP nhỏ hơn.
Lợi nhuận của ngân hàng xét cho cùng có được cũng là được phân phối lại từ lợi nhuận của doanh nghiệp. Điều này có nghĩa là sức khỏe của ngân hàng phụ thuộc vào sức khỏe của doanh nghiệp, vì vậy vấn đề đặt ra làm thế nào cho doanh nghiệp “sống khỏe và trường thọ” để ngân hàng không “chết”. Đây cũng là mục tiêu chính sách điều hành của Chính phủ và là trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương chứ không của riêng NHNN. Theo đó, cần phải tạo lập môi trường kinh doanh hấp dẫn, lành mạnh, ổn định và minh bạch cho doanh nghiệp và các trung gian tài chính hoạt động.
4.3.2. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện có hiệu quả đề án tái cơ cấu lại các Ngân hàng thương mại Việt nam theo kế hoạch đã đề ra
Cơ quan chức năng đưa ra các yêu cầu, buộc các NHTM phải tự mình xây dựng đề án và thực hiện đề án cơ cấu lại chính mình, với lộ trình, các giải pháp và bước đi cụ thể, đảm bảo tính ổn định, an toàn hệ thống. Chấn chỉnh lại công tác quản trị điều hành, rà soát và hoàn thiện các quy định nội bộ, có chiến lược hoạt động kinh doanh nói chung, hoạt động tín dụng nói riêng phù hợp. Tăng cường công tác kiểm soát đảm bảo tính độc lập, nâng cao hiệu quả của hoạt động kiểm tra và kiểm soát nội bộ.
Cơ quan quản lý Nhà nước chủ động ban hành các quy định quản lý phù hợp đối với các NHTM, không nên để tình trạng cho vay kinh doanh chứng khoán, đầu tư bất động sản quá lớn, rủi ro cao, đến lúc đó mới ban hành quy định, không để tình trạng các quy định quản lý chạy theo sau thực tiễn. Tăng cường công tác thanh tra, giám sát.
Có lộ trình tăng vốn chủ sở hữu phù hợp, không nên để tình trạng tăng vốn chủ sở hữu với tốc độ quá lớn như thời gian qua.
Tiến hành phân tích nợ xấu và có giải pháp cụ thể giải quyết nợ xấu. Chính phủ cần có cơ chế trong xử lý nợ xấu của các ngân hàng thương mại liên quan đến các tập đoàn kinh tế nhà nước, điển hình là Vinashin và Vinaline.
Các NHTM cần chủ động cơ cấu lại màng lưới và hiệu quả hoạt động của các đơn vị thành viên của mình,...nếu thua lỗ kéo dài thì dứt khoát phải giải thể, thanh lý, đóng cửa, hay bán lại cho các đơn vị khác. Cơ cấu lại bộ máy quản trị điều hành gắn liền với cơ cấu lại nguồn nhân lực, tăng cường đào tạo và đào tạo lại cán bộ, nhân viên, chuẩn hóa trong công tác tuyển dụng và bố trí, sử dụng nhân lực.
Chính phủ khẩn trương tái cấu trúc lại doanh nghiệp nhà nước,các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước một cách có hiệu quả song song với tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại, có cơ chế cho các Ngân hàng là chủ nợ được phép chuyển đôi các khoản nợ thành cổ phần.
Việc sát nhập, bán lại, hợp nhất giữa các ngân hàng thương mại không phải là giải pháp chính và không phải mục tiêu của cơ cấu lại mà phải được thực hiện trên cơ sở tự nguyện, phù hợp với các quy định pháp luật. Trong Báo cáo Cập nhật tình hình kinh tế Việt Nam vừa được WorldBank (WB) phát hành có nhắc đến mục tiêu trong năm 2014 sẽ có 6 -7 thương vụ mua bán sáp nhập trong lĩnh vực ngân hàng và giảm 50% số lượng ngân hàng thương mại trong vòng 3 năm tới của Ngân hàng Nhà nước. Song trong năm nay vẫn chưa có thương vụ nào mới được thực hiện.
Thực tế, đến nay vốn ngoại vẫn thờ ơ với lượng cung khủng của ngành ngân hàng. Nhiều ngân hàng đang “đỏ mắt” tìm kiếm nhà đầu tư nước ngoài. Sở dĩ vốn ngoại chưa đổ vào ngân hàng là do họ đang còn quan sát. Trước hết, đó là mục tiêu giảm số lượng ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước.
“Đây là yếu tố tương đối quan trọng với nhà đầu tư nước ngoài, bởi vì tiềm năng phát triển của ngành ngân hàng hiện tại đã khác với 10 năm trước. Bây giờ thị trường ngân hàng đã bão hòa. Dân số tuy đông nhưng số lượng người sử dụng dịch vụ ngân hàng chỉ 1/3 nhưng lại tập trung ở thành thị. Mảnh đất màu mỡ chính là khu vực nông thôn. Do vậy, dù được đánh giá là thị trường tiềm năng cho phát triển ngân hàng, nhưng nếu vào đầu tư để có lãi, nhà đầu tư nước ngoài sẽ phải mất rất nhiều thời gian, trong khi đó, thị trường Việt Nam lại quá nhiều ngân hàng.
Do vậy, cũng đã có nhiều ý kiến nhấn mạnh việc bán cổ phần cho nước ngoài có diễn ra mạnh mẽ hay không phụ thuộc rất lớn vào hành động quyết tâm tái cơ cấu ngành ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước thể hiện qua những quyết định được ban hành và giải pháp xử lý ngân hàng yếu kém, giảm số lượng ngân hàng…
Một vấn đề rất quan trọng nữa quyết định đến việc chi tiền của nhà đầu tư nước ngoài, đó là tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài với các TCTD Việt Nam. Nếu chỉ đầu tư với tỷ lệ 30% vào ngân hàng, thực tế, nhà đầu tư nước ngoài chỉ tham gia vào với hình thức đầu tư tài chính, bởi họ không có nhiều quyền lực cho việc quyết định một vấn đề quan trọng, còn với tỷ lệ 49% thì chỉ là đầu tư vào ngân hàng yếu kém cần phải giải cứu. Với nhà đầu tư nước ngoài, họ không có nhiệm vụ phải giải cứu ngân hàng yếu kém, mà nếu có giải cứu thì tỷ lệ này cũng không đủ sức thuyết phục họ chi tiền”. với niềm tin về tiềm năng trong lĩnh vực ngân hàng, cả nhà quản lý và giới ngân hàng đều kỳ vọng sẽ tạo cú hích cho vốn ngoại khi Chính phủ ban hành Nghị định 01 về tỷ lệ sở hữu cổ phần TCTD Việt Nam của nhà đầu tư nước ngoài có thể lên đến 49% nếu được Thủ tướng chấp thuận. NHNN cần thể hiện để họ hiểu rằng họ có thể mua được nhiều hơn số lượng 30% cổ phần tại một ngân hàng bình thường nếu họ có mong muốn đầu tư dài hạn. Nếu giải quyết được khúc mắc này nữa, việc dòng vốn ngoại đổ vào cứu ngân hàng sẽ không phải là vấn đề trong tương lai gần.
4.3.3. Khẩn trương hoàn thiện chiến lược phát triển ngành ngân hàng nói chung và chiến lược phát triển các Ngân hàng thương mại Việt Nam nói riêng
Mặc dù giới hạn nghiên cứu của luận án đến hết năm 2012, nhưng cho đến cuối tháng 10/2013 chiến lược phát triển ngành ngân hàng Việt nam vẫn chưa được hoàn thiện để Thống đốc NHNN trình Chính phủ thông qua và phê duyệt.
- Đưa ra các chính sách kiên quyết nhằm lành mạnh hóa và cải thiện năng lực tài chính cho các NHTM Viêt Nam, cần phối hợp để giảm nợ xấu và tăng khả năng kiểm soát chất lượng tín dụng, đặc biệt là của các ngân hàng quốc doanh và thực hiện đúng lộ trình tăng vốn, tăng tổng tài sản nhằm đảm bảo tính an toàn cho hệ thống.
- Tiếp tục nâng cao năng lực cạnh tranh sau khi hoàn thành đề án cơ cấu lại hệ thống ngân hàng. Cơ cấu lại hệ thống ngân hàng không chỉ là cơ cấu lại các vấn đề trong quá khứ và hiện tại mà còn phải xây dựng một hệ thống đảm bảo không tái diễn trong tương lai. NHNN giảm dần sự can thiệp không mang tính thị trường vào hoạt động của các ngân hàng thương mại. Trước áp lực cạnh tranh với các NHNNg cũng
như yêu cầu đảm bảo hoạt động lành mạnh của hệ thống, NHNN cần phối hợp với các ngân hàng thương mại để xây dựng một kế hoạch hành động rõ ràng nhằm tiếp tục củng cố, tăng cường năng lực tài chính, năng lực quản lý cho các ngân hàng .
4.3.4. Tăng cương vai trò quản lý nhà nước và điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước theo hướng tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh hơn cho các ngân hàng thương mại Việt Nam
Ngày 20/11, NHNN ban hành Thông tư số 36/2014/TT-NHNN quy định các tỷ lệ, giới hạn bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, trong đó có nhiều quy định chặt chẽ hơn về người có liên quan, góp vốn, mua cổ phần, an toàn tín dụng,… nhằm tạo cơ sở pháp lý xử lý căn bản, hạn chế tình trạng sở hữu chéo, sự thao túng, chi phối của cổ đông lớn, cho vay quá mức đối với cổ đông lớn và người có liên quan.
Ở Việt Nam, sở hữu chéo có tính lịch sử khi mà chúng ta đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, khuyến khích tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước đầu tư ngoài ngành, xử lý ngân hàng yếu kém. Do đó, xử lý vấn đề sở hữu chéo là một nội dung quan trọng của Đề án cơ cấu lại các tổ chức tín dụng đã được Bộ Chính trị và Chính phủ phê duyệt nhưng cần phải làm thận trọng, từng bước để giữ ổn định hệ thống. Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 có một số quy định cấm sở hữu chéo.
Về vấn đề cổ đông lớn thao túng, chi phối tổ chức tín dụng, từ năm 2012 Ngân hàng nhà nước tích cực đẩy mạnh công tác thanh tra và đã phát hiện nhiều trường hợp cổ đông lớn sở hữu vượt quá mức quy định của pháp luật dưới nhiều hình thức hết sức tinh vi thông qua nhờ đứng tên hộ, ủy thác đầu tư, ủy quyền,… Các cổ đông lớn này thao túng, chi phối hoạt động ngân hàng và vay với số tiền lớn đã dẫn đến mất an toàn hoạt động ở một số ngân hàng. Tất cả các trường hợp vi phạm về sở hữu vốn, giới hạn cấp tín dụng đều bị xử lý theo quy định trong quá trình tái cơ cấu ngân hàng như buộc phải chuyển nhượng vốn về mức giới hạn theo quy định, trả nợ cho ngân hàng hoặc phải đem tài sản hợp pháp để khắc phục tổn thất, thậm chí có trường hợp vi phạm nghiêm trọng đã bị xử lý hình sự.
Tăng cường quản lý nhà nước, đặc biệt là quản lý môi trường cạnh tranh, đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh là hết sức quan trọng. Theo đó ngân hàng nhà