Thanh Tra, Giám Sát Đối Với Hoạt Động Của Các Ngân Hàng Thương Mại .


- Xây dựng kế hoạch chiến lược phát triển của hệ thống các NHTM.


- Công cụ pháp luật bao gồm hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các hoạt động của các NHTM. Hiện nay, nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam đã ban hành luật chuyên ngành để quản lý hoạt động của các NHTM. Đối với giao dịch ngân hàng vượt qua lãnh thổ quốc gia, còn được điều chỉnh bởi các nguồn luật như các hiệp định, các quy tắc, thoả ước quốc tế.

Một số hoạt động của NHTM còn thuộc phạm vi điều chỉnh của các hệ thống pháp luật khác, cụ thể ở Việt nam, đó là : Bộ Luật dân sự, Bộ Luật tố tụng dân sự, Luật thi hành án dân sự, Luật đất đai, Luật Doanh nghiệp...Như vậy, việc vận dụng công cụ này một cách có hiệu quả đòi hỏi hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động của các NHTM phải bảo đảm tính đồng bộ, đầy đủ, thống nhất, tránh những xung đột pháp lý với các nguồn luật liên quan khác và đáp ứng được các đòi hỏi của thực tiễn hoạt động NHTM phát sinh.

- Thông qua các công cụ của CSTT, NHTW thực hiện việc điều tiết hoạt động NHTM nhằm đảm bảo hoạt động của các NHTM an toàn, lành mạnh và góp phần đạt được các mục tiêu kinh tế vĩ mô.

- Kiểm tra việc chấp hành các quy định về dự trữ bắt buộc, lãi suất, các hệ số an toàn hoạt động cũng như các mức độ nhạy cảm của tổ chức đối với sự biến động của thị trường theo hệ thống các chỉ tiêu đề ra.

- Thanh tra, giám sát của NHTW đối với hoạt động NHTM còn nhằm đảm bảo sự công bằng và bình đẳng trong quan hệ giữa ngân hàng và các khách hàng, thông qua hai khía cạnh :

Thứ nhất, nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của các ngân hàng với tư cách là người cho vay. Chẳng hạn, quy định chuẩn mực về phạm vi và mức độ chi tiết của các thông tin cần báo cáo cho ngân hàng khi cho vay


vốn; chuẩn mực hóa các thủ tục cho vay vốn và tiếp nhận các dịch vụ ngân hàng; quy định cụ thể về xử lý và giải quyết tranh chấp giữa ngân hàng với khách hàng.

Thứ hai, nhằm thúc đẩy cạnh tranh và hiệu quả thông qua quy định về chất lượng và sự cập nhật của thông tin mà ngân hàng có nghĩa vụ cung cấp cho những người tham gia thị trường. Cụ thể, cần quy định rõ cơ chế cung cấp thông tin, loại thông tin và phạm vi cung cấp. Điều này giúp cho công chúng với tư cách người đầu tư và người sử dụng các dịch vụ tài chính có khả năng đánh giá chất lượng hoạt động NHTM.

1.4.4- Thanh tra, giám sát đối với hoạt động của các Ngân hàng thương mại.

Theo thông lệ quốc tế do Ngân hàng Thanh toán quốc tế (BIS) đưa ra, một hệ thống thanh tra, giám sát ngân hàng hiệu quả phải là một hệ thống có sự phân định rõ ràng chức năng, mục đích của từng đơn vị liên quan đến công tác thanh tra giám sát. Trong đó, từng đơn vị phải có hoạt động độc lập tương đối với nguồn lực đầy đủ. Hệ thống đó phải có một khung pháp lý tương thích đối với quy trình thanh tra giám sát, từ thành lập ngân hàng tới thanh tra giám sát, có quyền lực để bảo đảm các ngân hàng tuân thủ các quy định luật pháp và bảo đảm an toàn hệ thống, đồng thời đảm bảo sự bảo vệ hợp pháp đối với các thanh tra viên. Cụ thể như sau:

- Về phân định rõ ràng trách nhiệm của các đơn vị liên quan đến các cơ quan thanh tra giám sát: Chức năng và trách nhiệm của từng đơn vị liên quan phải rõ ràng, có đầy đủ các quy định về an toàn tối thiểu, các quy chế phải được cập nhật và thay đổi tương thích với sự phát triển của thị trường; có cơ chế hữu hiệu về phối hợp giữa các đơn vị liên quan đến công tác thanh tra giám sát kể cả các trường hợp đóng cửa và cơ cấu lại ngân hàng,


cơ chế phối hợp này phải chủ động và phản ứng nhanh được trước các biến động lớn, nhất là cuộc khủng hoảng ngân hàng

- Về việc từng đơn vị liên quan đến thanh tra, giám sát phải có tính độc lập tương đối trong hoạt động và có đầy đủ nguồn lực, cần hạn chế sự can thiệp của chính trị và của chính quyền địa phương khi thanh tra thực hiện công việc của mình theo quy định; từng đơn vị tham gia thanh tra giám sát phải có đủ nguồn lực tài chính để bảo đảm công tác thanh tra giám sát được thực thi theo quy định và yêu cầu về an toàn hệ thống và có các chuyên gia giỏi; người đứng đầu cơ quan thanh tra giám sát phải được bổ nhiệm theo nhiệm kỳ, mà trong nhiệm kỳ đó không bị áp lực chính trị bắt rời khỏi cương vị đó nếu người đó không vi phạm luật pháp hoặc vì lý do sức khỏe, việc bãi nhiệm trước thời hạn phải được công bố rõ ràng.

- Về cơ sở pháp lý thích hợp cho hệ thống thanh tra giám sát : Cơ quan thanh tra giám sát phải có quyền đưa ra những tiêu chí về thành lập ngân hàng để bảo đảm cho an toàn hệ thống (bao gồm tiêu chí về vốn, cổ đông lớn, cơ cấu cổ đông, kế hoạch phát triển, kinh nghiệm hoạt động ngân hàng của ban điều hành, hệ thống quy chế về kiểm soát, kiểm toán nội bộ…); Cơ quan thanh tra giám sát được quyền chủ động đưa ra các quy định về an toàn hoạt động, phân loại nợ và xử lý dự phòng; Cơ quan giám sát được đưa ra những nhận định mang tính định tính khi đánh giá về an toàn hoạt động của từng ngân hàng.

* Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam


Từ kết quả nghiên cứu kinh nghiệm tại một số nước trên thế giới và Ngân hàng Thanh toán quốc tế cho thấy hầu hết các quốc gia đều luôn coi trọng và tăng cường việc quản lý, giám sát an toàn đối với hoạt động NHTM. Thực tiễn hoạt động của hệ thống các NHTM tại bất kỳ quốc gia nào, cũng luôn phát sinh các vấn đề đặt ra về quản lý đòi hỏi cần được xem


xét, bổ sung và điều chỉnh, nhằm đảm bảo hệ thống các NHTM hoạt động an toàn, lành mạnh, đó là : mô hình quản lý, giám sát; môi trường pháp lý từng bước theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế; hệ thống các công cụ, chính sách…Một số bài học rút ra cho Việt Nam từ kinh nghiệm các nước đó là :

- Không có mô hình quản lý, giám sát tối ưu đối với hoạt động của các NHTM áp dụng chung cho các nước. Tuỳ thuộc vào đặc điểm lịch sử, thể chế chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của từng nước sẽ có mô hình quản lý, giám sát phù hợp. Mô hình NHTW quản lý, giám sát đối với NHTM tại các nước Singapore, HongKong là phù hợp với thực tiễn Việt Nam.

- Môi trường pháp lý. Để quản lý, giám sát đối với hoạt động của các NHTM an toàn, lành mạnh nhiều nước đã và đang triển khai thực hiện 25 nguyên tắc cơ bản về giám sát hệ thống ngân hàng hiệu quả của Uỷ ban Basel.

- Để nâng cao hiệu quả quản lý, giám sát của NHTW đối với hoạt động của các NHTM, cần xây dựng hệ thống các công cụ quản lý, giám sát phù hợp như : xây dựng kế hoạch chiến lược phát triển của hệ thống các NHTM; hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các hoạt động của hệ thống NHTM phải đảm bảo tính đồng bộ, đầy đủ, thống nhất, tránh những xung đột pháp lý với các nguồn luật khác có liên quan và đáp ứng được các đòi hỏi của thực tiễn hoạt động NHTM phát sinh; xây dựng hệ thống thanh tra, giám sát ngân hàng hiệu quả theo các nguyên tắc : có sự phân định rõ ràng chức năng, mục đích của từng đơn vị liên quan đến công tác thanh tra, giám sát; từng đơn vị thanh tra, giám sát phải có hoạt động độc lập tương đối với nguồn lực đầy đủ; phải có mộy khung pháp lý thanh tra, giám sát có quyền lực, đồng thời đảm bảo sự bảo vệ hợp pháp đối với thanh tra viên…


TÓM TẮT CHƯƠNG 1


Chương 1 đã hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về NHTM, đặc điểm và nội dung hoạt động của các NHTM, nêu được vai trò quan trọng của hoạt động NHTM đối với nền kinh tế. Với hệ thống các NHTM hoạt động an toàn, lành mạnh sẽ làm tốt vai trò trung gian tài chính, không ngừng huy động vốn, cấp tín dụng cho nền kinh tế và cung ứng nhiều dịch vụ tiện ích cho khách hàng. Muốn hệ thống các NHTM hoạt động an toàn, lành mạnh, ngoài việc bản thân các NHTM phải nâng cao năng lực quản trị điều hành, hoàn thiện công tác kiểm soát, kiểm toán nội bộ,….thì vai trò quản lý của NHTW đối với hoạt động NHTM là quan trọng và cần thiết khách quan.

Từ việc làm rõ hoạt động quản lý của NHTW đối với hoạt động của các NHTM là cần thiết khách quan; thì các nội dung quan trọng kế tiếp của hoạt động quản lý cần được đề cập đến, đó là : quản lý đối với hoạt động của các NHTM nhằm đạt được mục tiêu gì? quản lý như thế nào? các nội dung, phương pháp và sử dụng các công cụ gì trong quản lý đối với hoạt động của các NHTM được trình bày trong chương 1.

Để có căn cứ đánh giá hiệu quả quản lý của NHTW đối với hoạt động NHTM, chương 1 đã phân tích, làm rõ các tiêu chí định tính và định lượng đối với NHTW và đối với NHTM. Nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả quản lý của NHTW đối với hoạt động NHTM, cũng cần chỉ ra được các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý của NHTW đối với hoạt động NHTM. Những nội dung trong chương 1 nói trên là cơ sở lý luận cho việc đối chiếu, đánh giá thực tế việc quản lý của NHNN đối với hoạt động NHTM ở Việt Nam thời gian qua, được trình bày trong Chương 2 và các giải pháp đưa ra ở Chương 3 nhằm nâng cao hiệu quả quản lý của NHNN đối với hoạt động NHTM ở Việt Nam trong thời gian tới.


CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ QUẢN LÝ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM

2.1- Khái quát về Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và hoạt động của các Ngân hàng thương mại

2.1.1- Môi trường kinh tế vĩ mô ảnh hưởng đến hoạt động của hệ thống Ngân hàng

Như trong chương 1 phần cơ sở lý luận đã nêu, hiệu quả quản lý của NHNN VN đối với hoạt động của các NHTM chịu ảnh hưởng của các nhân tố trong đó có nhân tố môi trường kinh tế vĩ mô. Do đó, để thấy được sự tác động của môi trường kinh tế vĩ mô đến hiệu quả quản lý của NHNN VN đối với hoạt động của các NHTM, cần điểm lại và phân tích một cách khái quát các diễn biến tình hình tăng trưởng kinh tế, lạm phát, mức tăng tổng phương tiện thanh toán và tốc độ tăng trưởng tín dụng trong từng giai đoạn.

- Giai đoạn 2004 - 2006


GDP trong giai đoạn này tăng nhanh dần : tốc độ tăng trưởng năm 2004 đạt 7,8%, năm 2005 tăng 8,5% và giảm nhẹ 8,23% vào năm 2006. Tính chung giai đoạn 2004 - 2006, tốc độ tăng GDP đạt bình quân 8,17%/năm (Bảng 2.1).

Cùng với tốc độ tăng trưởng giai đoạn này tăng lên, thì áp lực lạm phát cũng có xu hướng tăng lên. Theo kết quả nghiên cứu của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (2010) cho thấy : việc thực hiện mục tiêu lạm phát và mục tiêu tăng trưởng kinh tế có sự liên quan với nhau, do hai mục tiêu này có sự đánh đổi cho nhau; khi tăng trưởng cao hơn so với chỉ tiêu đề ra thì mức lạm phát có nhiều khả năng cũng vượt so với chỉ tiêu đề ra.


Bảng 2.1 Tăng trưởng tín dụng của các NHTM ở Việt Nam và một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô khác giai đoạn 2005 - 2013



2004

2005

2006

2007

2008

2009

2010

2011

2012

2013

- Tăng trưởng GDP (%)


7.80


8.50


8.23


8.48


6.18


5.32


6.78


5.89


5.14


5.42

- Lạm phát (%)


9.50


8.40


6.60


12.63


19.89


6.52


11.75


18.13


6.81


6.04

- Tốc độ tăng tổng PTTT(%)


29.5


29.65


33.59


46.12


20.31


28.99


33.30


12.50


22.50


18.51

- Tín dụng cho nền KTế (%)


39.4


31.10


25.44


53.89


25.43


37.53


31.19


14.45


8.85


12.52

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 147 trang tài liệu này.

Nâng cao hiệu quả quản lý của ngân hàng nhà nước đối với hoạt động của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam - 6


Nguồn : - Website NHNN & tính toán của tác giả

- Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2013), Đánh giá tổng thể tình hình KT-XH Việt Nam sau 5 năm gia nhập Tổ chức thương mại thế giới, Hà Nội

Hình 2.1 Tốc độ tăng cung tiền, tín dụng, tăng trưởng GDP, lạm phát từ năm 2004 đến 2013

- Tăng trưởng GDP (%)

- Tốc độ Tăng tổng PTTT (%)

- Lạm phát (%)

- Tín dụng cho nền kinh tế (%)

60

53.89

50

46.12

40 39.40

37.53

31.10

33.59

25.43

30

33.30

31.19

29.50

29.65

25.44

28.99

20.31

22.50

20

18.13

19.89

18.51

10

9.50

8.50

8.23

12.63

6.52

11.75

14.45

12.50

8.85

6.81

5.14

12.52

6.04

7.80

8.40

6.60

8.48

6.18

5.32

6.78

5.89

5.42

0

2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013

Nguồn : - NHNN

- Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2013), Đánh giá tổng thể tình hình KT-XH Việt Nam sau 5 năm gia nhập Tổ chức thương mại thế giới, Hà Nội

Điều này cho thấy vai trò của mở rộng tín dụng và mức tăng của tổng phương tiện thanh toán trong việc góp phần tăng trưởng kinh tế, nhưng đồng thời cũng làm gia tăng lạm phát.


Tín dụng trong giai đoạn này tăng lên 39,4% trong năm 2004, sau đó giảm xuống trong hai năm 2005 và 2006 lần lượt là : 31,1% và 25,44%. Không chỉ mức tăng tín dụng, mà tổng phương tiện thanh toán cũng có tốc độ tăng lên tương ứng qua các năm : 2004 tăng 29,5%, năm 2005 tăng 29,65% và năm 2006 tăng 33,59% (Hình 2.1).

- Giai đoạn 2007 – tháng 12/2011.


Để thấy được diễn biến tình hình tăng trưởng kinh tế GDP, lạm phát, mức tăng tổng phương tiện thanh toán và tốc độ tăng trưởng tín dụng giai đoạn 2007 - 2011 có thể phân chia ra thành 3 giai đoạn chi tiết : (i) từ đầu năm 2007 đến tháng 8/2008; (ii) từ tháng 09/2008 đến tháng 8/2010; (iii) từ tháng 09/2010 đến tháng 12/2011. [3]

+ Giai đoạn từ đầu năm 2007 đến tháng 8/2008.


Giai đoạn này các chỉ tiêu kinh tế đạt ở mức cao, tăng trưởng GDP năm 2007 đạt 8,48%, đây là mức cao nhất so với 10 năm trước đó. Sang quý I và quý II/2008 GDP lần lượt giảm xuống còn 7,5% và 5,7%. Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, thì giai đoạn từ tháng 01/2007 đến tháng 8/2008 áp lực lạm phát cũng gia tăng. Trong giai đoạn này, lạm phát tăng liên tục, bắt đầu tăng mạnh kể từ tháng 9/2007 và tăng ở mức cao nhất vào tháng 8/2008 : 28,3%, với các nguyên nhân bắt nguồn từ phía cung và phía cầu. Từ phía cung, nền kinh tế chịu tác động mạnh từ việc giá cả thế giới tăng lên; tác động này thông qua việc nhập khẩu từ nước ngoài, nhập khẩu chiếm tỷ trọng khá cao so với GDP. Từ phía cầu, lạm phát tăng lên do ưu tiên mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao và thực hiện chính sách tài chính - tiền tệ theo hướng mở rộng.

Áp lực lạm phát trong giai đoạn này tăng lên còn do bất cập trong việc điều hành phối hợp chính sách kinh tế vĩ mô : các dòng vốn đầu tư nước ngoài (trực tiếp và gián tiếp) ồ ạt chuyển vào Việt Nam kể từ cuối


năm 2006, do không lường trước và vượt quá khả năng hấp thụ của nền kinh tế. NHNN tăng cung tiền để mua vào số ngoại tệ chuyển vào này, nhằm ổn định tỷ giá và để tăng dự trữ ngoại hối. Sau đó, NHNN thực hiện biện pháp trung hòa hóa thông qua việc bán tín phiếu với lãi suất cao và tín phiếu bắt buộc đối với NHTM v.v... để hút tiền từ lưu thông về nhưng không thực thi hiệu quả các biện pháp này. Do đó, trong giai đoạn này cung tiền M2 đã tăng mạnh : năm 2007 cung tiền M2 với mức 46,12%; năm 2008 cung tiền M2 : 20,31%. Cùng với mức cung tiền M2 tăng lên, thì mức tăng tín dụng cũng tăng lên ở mức 53,89%, đã làm cho lạm phát càng tăng cao.

+ Giai đoạn từ tháng 09/2008 đến tháng 8/2010.


Từ tháng 9/2008 đến tháng 8/2009 lạm phát liên tục giảm, do sự tác động từ cuộc khủng hoảng, suy thoái thế giới và sự tác động của các chính sách kinh tế vĩ mô (thắt chặt tăng trưởng tín dụng, dãn đầu tư công và các biện pháp khác) nhằm kiềm chế lạm phát, được thực hiện từ tháng 4/2008.

Từ tháng 9/2009 đến tháng 12/2009 lạm phát có xu hướng tăng trở lại, tuy nhiên có mức tăng bình quân thấp hơn so với các năm trước. Tính chung đến cuối năm 2009 lạm phát tăng 6,52% so với cuối năm 2008. Tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn này từng bước được phục hồi nhờ : Chính phủ thực hiện gói kích cầu kinh tế thông qua các giải pháp về tài chính - tiền tệ (giảm, dãn, hoãn và miễn thuế, hỗ trợ tài chính, hỗ trợ lãi suất…); sự hồi phục của nền kinh tế thế giới.

+ Giai đoạn từ tháng 09/2010 đến tháng 12/2011.


Do tác động của gói kích cầu trước đó, nên từ tháng 9/2010 lạm phát đã bắt đầu tăng trở lại. Đến cuối tháng 12/2010 lạm phát tăng 11,75% so với cuối năm 2009. Lạm phát tăng lên trong các tháng cuối năm 2010 và các tháng đầu năm 2011, có nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân


do tổng phương tiện thanh toán và mức tăng tín dụng tăng nhanh vào các tháng cuối năm 2010. Tính chung cả năm 2010 mức tăng tổng phương tiện thanh toán và mức tăng tín dụng lần lượt là : 33,3% và 31,19%.

Đặc biệt, cuối năm 2011 lạm phát tăng cao 18,13% so với cuối năm 2010. Lạm phát tăng cao trong năm 2011 ngoài các nguyên nhân do chi phí đẩy, còn do nguyên nhân việc NHNN điều chỉnh tăng tỷ giá VND/USD khiến mặt hàng nhập khẩu (quy đổi thành VND) tăng mạnh (NHNN đã điều chỉnh tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng USD/VND : tháng 8/2010 điều chỉnh tăng 2,1%; tháng 11/2010 điều chỉnh tăng khoản 3,4%; ngày 11/02/2011 điều chỉnh tăng tỷ giá USD/VND lên khoảng 9,3%).

Nhận thức được lạm phát sẽ bùng phát trở lại và tăng cao trong năm 2011 và 2012 do việc thực hiện nới lõng các chính sách kinh tế vĩ mô từ các năm trước, nên ngay từ đầu năm 2011 Chính phủ thể hiện quyết tâm mạnh mẽ trong việc quyết định tập trung triển khai thực hiện các giải pháp nhằm ổn định kinh tế vĩ mô và kiềm chế lạm phát, đồng thời chấp nhận mức tăng trưởng thấp hơn (Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/2/2011 Chính phủ). Triển khai thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ trong năm 2011 nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, với CSTT chặt chẽ, thận trọng, nên mức tăng trưởng cung tiền cả năm 2011 chỉ đạt 12,5%, đây là mức tăng thấp nhất trong vòng hơn 10 năm qua. Cùng với việc giảm mức cung tiền, thì mức tăng tín dụng đến cuối năm 2011 cũng chỉ tăng 14,45% so với cuối năm 2010.

- Giai đoạn từ tháng 01/2012 đến tháng 12/2013


Do thực hiện CSTT chặt chẽ trong năm 2011 nói trên, cùng với giá thế giới suy giảm, cầu tiêu dùng tăng rất ít do thu nhập khả dụng của người dân giảm sút, tỷ giá được ổn định cả năm, quỹ dự trữ ngoại hối gia tăng, các biện pháp kiểm soát được công khai, nên lạm phát giảm nhanh trong 6


tháng đầu năm 2012. Đến cuối năm 2012 lạm phát chỉ tăng 6,81% so với cuối năm 2011, đây là một trong các thành quả đạt được theo các mục tiêu đã đề ra trong năm 2011 là ổn định kinh tế vĩ mô, thực hiện kiềm chế lạm phát.

Bên cạnh việc góp phần tác động tích cực trong việc kiềm chế lạm phát, thì CSTT chặt chẽ đã ảnh hưởng phần nào đến khu vực sản xuất, làm cho khu vực này sẽ khó khăn. Đây là hệ quả của mô hình tăng trưởng kinh tế trong nhiều năm trước đây, đánh đổi giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát.

Trước tình hình khó khăn này, trong năm 2012 CSTT có “linh hoạt” hơn, cung tiền đến cuối năm tăng 22,5% cao hơn so với mục tiêu đề ra cả năm từ 14 ->16% và cao hơn so với năm 2011. Cung tiền tăng lên trong 2012 đã làm cho mặt bằng lãi suất trên thị trường giảm xuống; thanh khoản của hệ thống NHTM tăng lên; ngoài ra NHNN còn mua được 10 tỷ USD (tương đương 210 ngàn tỷ đồng) để giữ ổn định tỷ giá và tăng quỹ dự trữ ngoại hối. Để tránh tác động đến lạm phát, NHNN đã thực hiện biện pháp trung hoà thông qua việc phát hành tín phiếu NHNN từ ngày 15/3 đến 31/12/2012 xấp xỉ khoảng 128 ngàn tỷ VND (tương đương khoản 8,3 tỷ USD).

Năm 2013, theo định hướng lạm phát tiếp tục được kiểm soát ở mức thấp hơn và tăng trưởng kinh tế GDP cao hơn năm 2012 theo các mục tiêu của các Nghị quyết số 01/NQ-CP và Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 07/01/2013 của Chính phủ đã đề ra. Kết quả đến cuối năm 2013, tăng trưởng kinh tế GDP đạt 5,42%; lạm phát cuối năm 2013 tăng 6,04% so cuối năm 2012, thấp hơn mức kế hoạch đề ra dưới 8%. Cung tiền M2 đến ngày 31/12/2013 tăng 18,51% so với cuối năm 2012, vượt chỉ tiêu định hướng đã đề ra 14-16%. Tăng trưởng tín dụng đến cuối năm 2013 tăng 12,52% so với cuối năm 2012, vượt so với chỉ tiêu đề ra (kế hoạch năm 2013 mức tăng tín dụng là 12%).


Điều này phản ánh sự chủ động, linh hoạt của NHNN trong điều hành chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng ở mức hợp lý, bảo đảm thanh khoản của các NHTM và nền kinh tế...[35]

2.1.2- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - Sự hình thành, phát triển và các hoạt động chủ yếu

Hệ thống Ngân hàng Việt Nam kể từ ngày thành lập 6/5/1951 đến nay, qua hơn 62 năm hoạt động đã không ngừng được đổi mới và phát triển, cùng với công cuộc cải cách và phát triển của nền kinh tế. Có thể khái quát lại sự hình thành, phát triển và các hoạt động chủ yếu của NHNN và hệ thống các NHTM từ năm 1986 đến nay như sau [37] :

- Giai đoạn 1986 - 1989


Trên cơ sở Nghị định số 53/HĐBT ngày 26/3/1988 của Hội đồng Bộ trưởng, hệ thống ngân hàng được tách thành 2 hệ thống ngân hàng : hệ thống NHNN và hệ thống ngân hàng chuyên doanh. Theo đó tổ chức, hoạt động của NHNN được kiện toàn, sắp xếp lại để thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng, đồng thời làm chức năng ngân hàng của các ngân hàng; các ngân hàng chuyên doanh thực hiện nhiệm vụ kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng.

Hệ thống ngân hàng chuyên doanh được thành lập trên cơ sở chuyển và tách ra từ NHNN, gồm 4 ngân hàng chuyên doanh : Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.

- Giai đoạn 1990 - 1996


Hệ thống Ngân hàng Việt Nam chính thức chuyển cơ chế hoạt động từ 1 cấp chuyển sang 2 cấp theo hai Pháp lệnh ngân hàng được ban hành và có hiệu lực từ tháng 5/1990. Hai Pháp lệnh ngân hàng ra đời, là căn cứ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 21/04/2022