IVB là 165 triệu USD, trong đó Vietinbank và Cathay United Bank mỗi bên góp 82,5 triệu USD.
Cổ đông chiến lược nước ngoài tại các NHTM Nhà nước và NHTMCP. Nhằm khuyến khích các NHTM trong nước nâng cao năng lực tài chính và năng lực quản trị điều hành theo kịp với các ngân hàng trong khu vực và quốc tế, Chính phủ và NHNN chủ trương khuyến khích cho phép các NHTM trong nước tìm kiếm đối tác nước ngoài làm cổ đông chiến lược.
Cổ đông tại các NHTM là các công ty quản lý quỹ. Với hình thức này, các công ty quản lý quỹ đầu tư vốn vào các NHTMCP có tiềm năng phát triển.
Sở hữu của NHTM Nhà nước tại các NHTM cổ phần. Để hỗ trợ nghiệp vụ cho các NHTMCP khi bắt đầu thành lập hoặc khi gặp khó khăn, NHTM Nhà nước sở hữu tỷ lệ cổ phần và trở thành cổ đông chiến lược của các NHTMCP. Hiện nay 4 NHTM Nhà nước (Vietcombank, VietinBank, Agribank, BIDV) đều sở hữu tỷ lệ cổ phần số lượng lớn và trở thành cổ đông chiến lược của các NHTMCP.
Sở hữu chéo lẫn nhau giữa các NHTM cổ phần. Hình thức này hiện nay đang diễn ra phổ biến ở Việt Nam.
Sở hữu các NHTM cổ phần bởi các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước và tư nhân. Thời gian có không ít các Tập đoàn kinh tế Nhà nước và các Tập đoàn cổ phần, đầu tư dài hạn với vai trò là nhà sáng lập, nhà đầu tư chiến lược tại các NHTM, nhưng lại không chuyên sâu về lĩnh vực ngân hàng. Đã có khoảng 40 DNNN và tư nhân có sở hữu trên 5% vốn tại các NHTMCP và các DN này lại sở hữu các công ty đầu tư tài chính.
Tình trạng sở hữu chéo trong hệ thống NHTM, các TCTD, bên cạnh mặt tích cực của sở hữu chéo như giảm bất cân xứng thông tin giữa ngân
hàng và doanh nghiệp, hình thành nên một cơ cấu sở hữu, cơ chế tài trợ và quản trị ổn định giữa các bên…; thì sở hữu chéo có thể tạo ra những tác động tiêu cực đến an toàn của từng NHTM nói riêng và của hệ thống các NHTM, các TCTD nói chung (Phụ lục 2 Sở hữu chéo và đầu tư chéo)
Có thể bạn quan tâm!
- Thanh Tra, Giám Sát Đối Với Hoạt Động Của Các Ngân Hàng Thương Mại .
- Cơ Cấu Tổ Chức Bộ Máy Của Nhnn Việt Nam Theo Nghị Định Số 156/2013/nđ-Cp
- Thị Phần Huy Động Vốn Và Tín Dụng Của Các Ngân Hàng Thương Mại Từ Năm 2005 – 2013 (%)
- Tổ Chức Bộ Máy Quản Lý Đối Với Hoạt Động Ngân Hàng Thương Mại Ở Việt Nam
- Về Xây Dựng Và Hoàn Thiện Khung Pháp Cho Hoạt Động Của Các Nhtm Và Quản Lý Của Ngân Hàng Nhà Nước.
- Cơ Hội, Thách Thức Trong Việc Nâng Cao Hiệu Quả Quản Lý Của Ngân Hàng Nhà Nước Đối Với Hoạt Động Của Các Nhtm Ở Việt Nam
Xem toàn bộ 147 trang tài liệu này.
2.1.3.5- Đánh giá chung về kết quả hoạt động của các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam
* Kết quả đạt được
- Hoạt động của hệ thống các NHTM ngày càng phát triển, nâng cao vai trò trung gian tài chính; đẩy mạnh việc huy động và cung ứng vốn cho nền kinh tế; góp phần tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm cho người lao động.
- Các sản phẩm dịch vụ ngày càng phát triển phong phú và đa dạng. Cùng với các sản phẩm dịch vụ mang tính truyền thống như huy động vốn dưới các hình thức tiền gửi, tiết kiệm, phát hành kỳ phiếu….các NHTM còn đa dạng hoá hình thức huy động vốn như : phát hành các giấy tờ có giá như trái phiếu ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi, tiết kiệm linh hoạt, tiết kiệm bậc thang, tiết kiệm có thưởng…triển khai các sản phẩm nghiệp vụ phái sinh : hoán đổi lãi suất, giao dịch ngoại tệ có kỳ hạn, giao dịch quyền chọn, giao dịch hoán đổi tiền tệ…Bên cạnh các sản phẩm dịch vụ ngày càng phát triển phong phú và đa dạng thì hệ thống mạng lưới chi nhánh/phòng giao dịch của các NHTM ngày càng được mở rộng.
- Năng lực tài chính và quy mô hoạt động của các NHTM tăng nhanh. Hệ thống NHTM phát triển an toàn, đã góp phần ổn định hệ thống tài chính ở Việt Nam.
- Năng lực cạnh tranh của các NHTM ngày càng được nâng lên; từng bước mở rộng thị trường; đẩy mạnh hội nhập khu vực và quốc tế trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng.
* Tồn tại, hạn chế
- Mức độ an toàn của hệ thống NHTM chưa cao, dễ bị tổn thương khi gặp cú sốc từ môi trường vĩ mô. Biểu hiện qua các mặt :
+ Một số NHTM : có các tỷ lệ an toàn hoạt động theo quy định, thực chất không bảo đảm; tỷ lệ an toàn chi trả đạt mức thấp và hệ số an toàn vốn (CAR) thực chất cũng ở mức dưới thông lệ và cả so với yêu cầu; tình trạng cho vay quá mức dẫn đến hệ số sử dụng vốn (tỷ lệ cho vay trên huy động) còn cao và vượt mức an toàn; vấn đề “chênh lệch cơ cấu kỳ hạn” (dư nợ cho vay trung dài hạn chiếm tỷ lệ cao trong khi nguồn vốn huy động hầu hết là ngắn hạn); sự mất cân đối về kỳ hạn giữa huy động và cho vay, là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến gây nên tình trạng thường xuyên căng thẳng thanh khoản ở các NHTM này.
+ Giá trị tổng tài sản của các NHTM tăng nhanh qua các năm, nhưng lại không đồng đều giữa các khối NHTM và chưa phản ánh thực chất ở một số NHTM. Nhìn chung quy mô tổng tài sản có và vốn chủ sở hữu còn thấp so với mức bình quân của các ngân hàng trong khu vực.
+ Hệ số đòn bẩy tài chính của các NHTM tăng lên trong các năm gần đây, điều này chứng tỏ quy mô vốn chủ sở hữu đang giảm xuống so với giá trị tổng tài sản.
+ Tăng trưởng tín dụng hàng năm thường rất cao, nhưng kể từ năm 2010 đến năm 2012 tăng trưởng tín dụng giảm xuống và thậm chí chuyển sang âm, đi kèm theo đó là tỷ lệ nợ xấu tăng nhanh như đã phân tích trên đây.
+ Chất lượng tài sản có của không ít NHTM giảm xuống, nhưng mức trích lập quỹ dự phòng bù đắp rủi ro còn thấp. Điều này biểu hiện mức độ an toàn của hệ thống NHTM sẽ bị đe dọa khi rủi ro bộc phát.
- Hoạt động của hệ thống NHTM còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, được biểu hiện thông qua một số yếu tố :
+ Vốn điều lệ của các NHTM tăng lên, chủ yếu từ năm 2008 đến năm 2011 theo quy định của Nghị định 141/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 11 năm 2006 của Chính phủ ban hành Danh mục mức vốn pháp định của các TCTD. Tuy nhiên, đàng sau của việc tăng vốn là sở hữu chéo, đã làm cho quy mô vốn điều lệ và tổng tài sản của một số NHTM bị tăng ảo. Bên cạnh tình trạng sở hữu chéo vốn, là “cho vay đầu tư nhóm khách hàng liên quan” vượt tỷ lệ do NHNN quy định - đây là kênh chủ yếu để dẫn vốn tín dụng đến với các dự án nhiều rủi ro (bao gồm các dự án bất động sản, kinh doanh chứng khoán…).
+ Nguồn vốn để cho vay nền kinh tế của một số NHTM lại phụ thuộc vào thị trường 2 (thị trường liên ngân hàng và các nguồn vay mượn khác : từ NH nước ngoài, từ NHNN…); do đó, khi thị trường tiền tệ biến động, sẽ dẫn đến rủi ro cho các NHTM.
- Kết quả kinh doanh gặp khó khăn; lợi nhuận ngành ngân hàng có khả năng sẽ suy giảm trong thời gian tới, nếu không thúc đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu nền kinh tế trong đó có tái cơ cấu ngân hàng. Cơ cấu thu nhập của hệ thống NHTM chỉ ra, lãi của hầu hết các ngân hàng chủ yếu đến từ hoạt động tín dụng. Thế nhưng, trong bối cảnh nợ xấu gia tăng và tín dụng tăng trưởng thấp hoặc âm thì không ít ngân hàng chắc chắn sẽ phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ. Đó là chưa kể, nếu thực hiện phân loại nợ và trích lập DPRR đúng, đủ và/hoặc tuân thủ thông lệ quốc tế, đồng thời hạch toán theo chuẩn mực kế toán quốc tế, thì hiệu quả kinh doanh của các NHTM Việt Nam còn thấp hơn nữa.
- Tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các NHTM. Trong điều kiện mở cửa hội nhập kinh tế với thế giới, khu vực nói chung và trong
lĩnh vực tài chính, ngân hàng thì cạnh tranh là tất yếu khách quan. Nếu hệ thống các NHTM hợp tác và cạnh tranh lành mạnh sẽ giảm chi phí cho nền kinh tế; quá trình cạnh tranh giữa các ngân hàng sẽ giảm lãi suất trong cho vay, tăng cường các dịch vụ và tiện ích có chất lượng, chi phí giảm nhằm thu hút khách hàng.
Tuy nhiên, thời gian qua sự cạnh tranh có lúc không theo chiều hướng tích cực, mà xuất hiện tình trạng cạnh tranh không lành mạnh diễn ra giữa các NHTM, TCTD dưới nhiều hình thức. Mặc dù đã có các văn bản pháp luật điều chỉnh các hành vi cạnh tranh không lành mạnh; Hiệp hội Ngân hàng không ngừng phát huy vai trò của mình, trong việc tổ chức họp các thành viên nhằm đi đến thỏa thuận, cam kết thực hiện thống nhất giữa các thành viên trong việc hợp tác cùng có lợi, hạn chế việc cạnh tranh không lành mạnh... Nhưng tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các NHTM vẫn chưa được đẩy lùi. Một số NHTM có biểu hiện cạnh tranh không lành mạnh trong việc thu hút, lôi kéo khách hàng bằng việc : hạ thấp điều kiện cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ; nâng lãi suất huy động nhưng không tính toán đầy đủ hiệu quả sử dụng; dèm pha đối thủ của mình…Tình trạng trên không chỉ gây ra rủi ro cho các NHTM, mà còn hạn chế sự phát triển an toàn, lành mạnh hoạt động của hệ thống các NHTM ở Việt Nam.
- Tình hình phạm tội trong lĩnh vực ngân hàng xuất hiện ngày càng tinh vi và phức tạp.
* Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế
- Về quản trị, điều hành.
Công tác quản trị, điều hành tại một số NHTM còn nhiều tồn tại, hiệu quả thấp : việc ban hành chính sách, quy định nội bộ còn thiếu, chưa phù hợp với thực tiễn và quy định của NHNN; sự phân cấp, phân quyền giữa các cấp lãnh đạo chưa phù hợp, vẫn xảy ra tình trạng chồng chéo
trong điều hành và tác nghiệp giữa các bộ phận, giữa cấp quản lý và cấp điều hành; chưa cân đối được giữa nguồn lực, khả năng quản trị rủi ro, đặc biệt là rủi ro thanh khoản, rủi ro tín dụng và rủi ro thị trường với quy mô và mạng lưới hoạt động; chính sách khen thưởng, kỷ luật và giao chỉ tiêu kế hoạch chưa sát với thực tế cơ sở và chưa đi kèm công tác kiểm tra, kiểm soát đúng mức…
- Về hệ thống kiểm soát, kiểm toán nội bộ của các Ngân hàng thương mại .
Mặc dù các NHTM đã triển khai thực hiện các quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ được ban hành kèm theo Thông tư số 44/2011/TT-NHNN ngày 29/12/2011 của Thống đốc NHNN (thay thế các quyết định trước đây đã hết hiệu lực kể từ ngày 12/12/2012 : Quyết định số 36/2006/QĐ-NHNN ngày 01/8/2006 của Thống đốc NHNN ban hành Quy chế kiểm tra, kiểm soát nội bộ của TCTD và Quyết định số 37/2006/QĐ- NHNN ngày 01/8/2006 của Thống đốc NHNN ban hành Quy chế kiểm toán nội bộ của TCTD), nhưng công tác kiểm soát, kiểm toán nội bộ tại các NHTM vẫn còn các tồn tại, hạn chế như : mội trường kiểm soát còn nhiều yếu tố không thuận lợi cho công tác kiểm soát nội bộ; hệ thống cập nhật, theo dõi, đầu ra thông tin, những vấn đề tiềm ẩn rủi ro trong hoạt động của NHTM chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi về quản lý và xử lý rủi ro; hoạt động kiểm toán nội bộ chưa kiểm toán được hết các mặt hoạt động có độ rủi ro cao, những đơn vị có nợ xấu cao; trình độ chuyên môn của kiểm toán viên còn hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của công việc; quy trình, quy chế, quy định nội bộ của NHTM vẫn còn một số chưa bổ sung, sửa đổi kịp thời; Thành viên Ban kiểm soát chuyên trách còn kiêm nhiệm các công việc chuyên môn nghiệp vụ không đảm bảo tính độc lập, phân tách chức năng, nhiệm vụ để quản lý, kiểm soát rủi ro; thành phần Ban xử lý rủi ro chưa phù hợp với quy định của NHNN.
- Ý thức tuân thủ của các Ngân hàng thương mại
Đối với hoạt động cấp tín dụng, tồn tại sai phạm trong hoạt động cấp tín dụng của các NHTM tập trung vào vi phạm về nguyên tắc vay vốn, điều kiện vay vốn, về hồ sơ vay vốn, về thẩm định và quyết định cho vay, về kiểm tra, giám sát việc vay vốn; phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro; điều kiện, nguyên tắc bảo lãnh; quản lý tín dụng trực tuyến còn ở mức thấp; quản lý hạn mức tín dụng chưa chặt chẽ.
Việc tập trung cấp tín dụng cho một số ít khách hàng và nhóm khách hàng có mức độ rủi ro lớn; tập trung cấp tín dụng rất lớn liên quan đến bất động sản (dư nợ cấp tín dụng có tài sản bảo đảm là bất động sản chiếm tới 53% tổng dư nợ cấp tín dụng); cấp tín dụng cho một số khách hàng, nhóm khách hàng với dư nợ lớn, tình hình hoạt động xấu; cấp tín dụng khá lớn cho nhiều khách hàng có tình hình tài chính không lành mạnh (thua lỗ, hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu lớn,…) gây rủi ro lớn cho hệ thống các NHTM trong nước.
Nợ xấu phát sinh thời gian qua, nguyên nhân chủ quan là do một số NHTM chất lượng công tác thẩm định chưa cao, tài sản thế chấp không bảo đảm tính pháp lý, giá trị phát mại chuyển nhượng thấp; đạo đức, kinh nghiệm của nhân viên tín dụng suy giảm; nguyên nhân khách quan là do bối cảnh kinh tế vĩ mô có nhiều biến động, lạm phát tăng, lãi suất cho vay cao làm tăng chi phí sản xuất và ảnh hưởng khả năng trả nợ của khách hàng; khách hàng có dấu hiệu lừa đảo, bị chiếm dụng vốn, làm ăn không hiệu quả, đầu tư sai mục đích…
- Với mô hình ưu tiên tăng trưởng kinh tế nhanh trong các năm trước đây.
Việc ưu tiên tăng trưởng kinh tế nhanh, đòi hỏi nhu cầu về vốn và dịch vụ ngân hàng tăng lên. Do đó, thời gian trước đây cho phép phát triển
nhanh về số lượng và quy mô các NHTM, nhưng ít chú trọng yếu tố chất lượng, đã vượt quá khả năng quản trị của các NHTM. Khi gặp cú sốc từ môi trường, thì khả năng chống đỡ của các NHTM rất khó khăn và yếu ớt, do không lường trước các tình huống xảy ra.
- Bối cảnh kinh tế vĩ mô có nhiều biến động, đặc biệt từ khi Việt Nam hội nhập WTO (năm 2007) đến nay.
Môi trường kinh tế vĩ mô có nhiều biến động đã ảnh hưởng đến hoạt động an toàn, lành mạnh của các NHTM. Việc mở cửa hội nhập kinh tế thế giới và tiếp đến là cuộc khủng hoảng và suy thoái kinh thế giới tác động đến nền kinh tế nước ta nói chung, trong đó tác động đến hệ thống tài chính - ngân hàng, hệ quả làm cho hoạt động của các NHTM gặp không ít khó khăn.
- Hệ thống các NHTM vẫn tiếp tục là kênh cung ứng vốn chủ yếu cho nền kinh tế, khi thị trường vốn chưa phát triển.
Trong thời gian qua, thị trường vốn chưa phát triển, thì các NHTM vẫn tiếp tục là kênh cung ứng vốn chủ yếu cho nền kinh tế, do đó trong điều kiện lạm phát khi các NHTM không thực hiện được tốt chức năng trung gian tài chính do phải ưu tiên việc thực hiện chính sách thắt chặt tín dụng để chống lạm phát theo chỉ đạo của Chính phủ và của NHTW, vốn cho nền kinh tế suy giảm, thì nền kinh tế tất yếu sẽ gặp khó khăn và ngược lại, hệ thống các NHTM dễ dàng bị rủi ro khi kinh tế vĩ mô bất ổn.
- Do chạy theo lợi nhuận nên lãnh đạo tại một số NHTM nới lõng điều kiện tín dụng; lãnh đạo, nhân viên tại một số NHTM do suy thoái về đạo đức, đã thông đồng, móc nối với khách hàng để vay ké; lập hồ sơ khống vay tiền để chiến đoạt…công tác kiểm tra, kiểm soát tại một số NHTM chưa được chặt chẽ.
- Hoạt động quản lý, giám sát, điều tiết của Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan quản có thẩm quyền đối với hoạt động của các Ngân hàng thương mại cũng còn một số bất cập.
Hoạt động quản lý, giám sát, điều tiết của Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan quản có thẩm quyền đối với hoạt động của các NHTM thời gian qua đã đạt được các thành tích đáng kể. Tuy nhiên, từng nơi, từng lúc chưa đạt so với yêu cầu đặt ra, cụ thể : (i) Hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực hoạt động NHTM thời gian qua cho thấy ban hành khá nhiều, nhưng có lúc chưa theo kịp so với yêu cầu thực tiễn hoạt động phát sinh của các NHTM, nhất là trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là lẽ đương nhiên của quá trình phát triển tại nhiều quốc gia trên thế giới trong điều kiện mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế. (ii) Hoạt động quản lý, điều tiết của NHNN đối với hoạt động của hệ thống các NHTM thông qua việc sử dụng một số công cụ CSTT chưa đạt hiệu quả cao. (iii) Hoạt động thanh tra, giám sát chưa theo kịp với sự phát triển đối với hoạt động của các NHTM. (iii) Chưa nắm bắt kịp thời những vấn đề phát sinh mới, do đó còn bị động khi định hướng cho các NHTM hoạt động ổn định và lành mạnh.
(iv) Thiếu bộ chỉ số để đánh giá rủi ro hoạt động của các NHTM, trên cơ sở đó có thể xử lý kịp thời các tình huống xấu phát sinh đối với hoạt động của các NHTM…
Từ các phân tích trên đây cho thấy hoạt động của các NHTM thời gian đã được các kết quả đáng kể, tuy nhiên cũng còn các tồn tại, hạn chế cần được xử lý, khắc phục. Các kết quả đạt được, cũng như các tồn tại, hạn chế đối với hoạt động của các NHTM do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó có nguyên nhân từ việc quản lý, giám sát của NHNN Việt Nam đối với hoạt động của các NHTM sẽ được phân tích rõ hơn trong phần kế tiếp.
2.2- Thực trạng quản lý của Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động của các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam
2.2.1- Tình hình xây dựng chiến lược phát triển đối với hoạt động Ngân hàng thương mại ở Việt Nam
Quản lý đối với hoạt động NHTM được bắt đầu từ việc xác định rõ ràng các mục tiêu, đề ra phương hướng phát triển. Đây là giai đoạn ban đầu quan trọng của quản lý đối với hoạt động NHTM, quyết định tính đúng đắn của các hoạt động kế tiếp. Nhận thức được tầm quan trọng này, ngay từ những năm trước đây Đảng, Nhà nước và Cơ quan đầu ngành là NHNN được Chính phủ giao nhiệm vụ quản lý đối với hoạt động NHTM đã xác định được các mục tiêu và phương hướng phát triển đối với hoạt động NHTM :
- Thông báo số 191-TB/TW ngày 01/9/2005 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị đã chỉ rõ chiến lược phát triển hệ thống ngân hàng : “Việc tiếp tục đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng là một nhiệm vụ quan trọng cấp bách trước mắt cũng như chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước để góp phần phát triển kinh tế, xã hội và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
- Đề án phát triển ngành Ngân hàng đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 112/2006/QĐ-TTg ngày 24/5/2006 đã đưa ra định hướng phát triển hệ thống ngân hàng :
+ Đối với NHNN : đổi mới tổ chức và hoạt động của NHNN để hình thành bộ máy tổ chức tinh gọn, chuyên nghiệp, có đủ nguồn lực, năng lực xây dựng và thực thi CSTT theo nguyên tắc thị trường dựa trên cơ sở công nghệ tiên tiến, thực hiện các thông lệ, chuẩn mực quốc tế về hoạt động NHTW, hội nhập với cộng đồng tài chính quốc tế, thực hiện có hiệu quả
chức năng quản lý nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng, đồng thời tạo nền tảng phát triển NHNN trở thành NHTW hiện đại, đạt trình độ tiên tiến của các NHTW (viết tắt là NHTW) trong khu vực.
+ Đối với NHTM : cải cách căn bản, triệt để và phát triển toàn diện hệ thống các NHTM theo hướng hiện đại, hoạt động đa năng để đạt trình độ phát triển trung bình tiên tiến trong khu vực ASEAN với cấu trúc đa dạng về sở hữu, về loại hình TCTD, có quy mô hoạt động lớn hơn, tài chính lành mạnh, đồng thời, tạo nền tảng đến sau năm 2010 xây dựng được hệ thống các NHTM, đạt trình độ tiên tiến trong khu vực Châu Á, đáp ứng đầy đủ các chuẩn mực quốc tế về hoạt động ngân hàng, có khả năng cạnh tranh với các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới.
- Đề án Cơ cấu lại hệ thống các NHTM, TCTD giai đoạn 2011- 2015” ngày 01 tháng 03 năm 2012 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt số 254/QĐ-TTg, tập trung vào các vấn đề trọng tâm : ổn định thanh khoản cho hệ thống ngân hàng; lành mạnh hóa tình trạng tài chính, tập trung xử lý nợ xấu của các NHTM, TCTD; và tái cơ cấu tổ chức, hoạt động và quản trị hệ thống ngân hàng, xử lý tình trạng sở hữu chéo thông qua cơ chế tự sáp nhập và hợp nhất giữa các NHTM, TCTD; giảm số lượng các NHTM, TCTD, minh bạch hóa hoạt động của các NHTM trên toàn hệ thống. Ngày 13/3/2013, Thủ tướng Chính phủ ký quyết định thành lập Ban Chỉ đạo liên ngành nhằm triển khai Đề án Cơ cấu lại hệ thống các NHTM, TCTD giai đoạn 2011 - 2015 theo đúng lộ trình.
Nhằm đạt được các mục tiêu và phương hướng phát triển đối với hoạt động NHTM theo Chiến lược phát triển ngân hàng đề ra nói trên, một loạt các dự án, đề án và kế hoạch chủ yếu đã được đề ra : Dự án Luật NHNN thay thế Luật NHNN (năm 1997), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật NHNN (năm 2003); Dự án Luật các TCTD thay thế Luật các TCTD (năm 1997), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD
(năm 2004); Dự án Luật Các công cụ chuyển nhượng (năm 2005); Dự án Luật Bảo hiểm tiền gửi; Dự án Luật Giám sát an toàn hoạt động ngân hàng. Nhóm các dự án, đề án khác : Đề án tăng cường năng lực tài chính (tăng vốn tự có, xử lý các tồn đọng tài chính, chủ yếu là nợ xấu) của các NHTM theo chuẩn mực, thông lệ quốc tế về kế toán, phân loại nợ và lộ trình cổ phần hoá các NHTMNN; Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2006 - 2010 và tầm nhìn đến năm 2020; Dự án hiện đại hoá ngân hàng và hệ thống thanh toán giai đoạn II do Ngân hàng Thế giới tài trợ; Dự án hệ thống thông tin quản lý và hiện đại hoá ngân hàng do Ngân hàng Thế giới tài trợ; Đề án lộ trình nâng cao tính chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam, khắc phục từng bước hiện tượng đô la hoá trong nền kinh tế; Xây dựng Nghị định của Chính phủ quy định việc cung cấp thông tin phục vụ xây dựng và điều hành CSTT quốc gia; Nghiên cứu, xây dựng quy định về hình thức, cơ chế công bố thông tin về lạm phát để tăng cường sự hiểu biết của công chúng về lạm phát…
Nhìn chung, việc xác định rõ ràng các mục tiêu, từ đó đề ra phương hướng phát triển đối với hoạt động của các NHTM ở Việt Nam, đây là căn cứ giúp NHNN trong việc xây dựng cơ chế, chính sách quản lý để nhằm đạt được các mục tiêu đã định.
2.2.2- Về khuôn khổ pháp lý cho hoạt động Ngân hàng thương mại ở Việt Nam
NHNN đã tập trung xây dựng, sửa đổi, bổ sung khuôn khổ pháp lý để trình các cấp có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh tổ chức, hoạt động TCTD nói chung, trong đó có NHTM nói riêng. Tính từ năm 1997 đến tháng 11/2013 NHNN đã chủ trì soạn thảo trình Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành 9 luật, 2 pháp lệnh; đồng thời soạn thảo trình cấp có thẩm quyền hoặc ban hành theo thẩm quyền 284 văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh về tiền tệ, ngân hàng,