Chương2: Vị thế và vai trò của các thể thơ truyền thống trong Thơ mới1932 - 1945 Chương 3: Chức năng và nội dung của các thể thơ truyền thống trong Thơ mới 1932 - 1945
Chương 4: Thi pháp các thể thơ truyền thống trong Thơ mới 1932 - 1945.
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Thơ mới 1932 - 1945 từ phương diện thể thơ trên lịch trình nghiên cứu suốt hơn tám thập kỷ qua
Vấn đề nghiên cứu thể loại nói chung và các thể thơ nói riêng trong phong trào Thơ mới đã được đề cập từ rất sớm. Ngay từ khi mới ra đời, Thơ mới trước hết được nhìn nhận ở góc độ thể loại, được hiểu là thơ “tự do” (theo nghĩa là mộ
thơ” hay “thể thơ”) nhằm phân biệt, đối lập với những bài thơ làm theo hình thức thơ luật Đường một cách gò bó, khuôn sáo, xuất hiện không ít trên báo chí công khai thời bấy giờ. Phan Khôi trong bài Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ (1932) xác định đó là lối thơ “đem ý thật có trong tâm khảm tả ra bằng những câu có vần mà không phải bó buộc bởi những niêm luật gì hết” [85, 53]. Được Phan Khôi khơi mào, các tác phẩm Thơ mới liên tục được in ra, các báo ở hai miền đã cho đăng các bài “bút chiến” tranh luận Thơ cũ - Thơ mới, phê bình Thơ mới. Các bài viết tham gia tranh luận đã được tập hợp khá đầy đủ trong cuốn Tranh luận văn nghệ thế kỷ XX [131]. Nhìn chung, cái đích lớn nhất mà cuộc tranh luận hướng đến là nhằm đi tìm và xác lập diện mạo lối “thơ mới”. Lúc đầu, Thơ mới được xác định bằng cách đối sánh với các thể thơ cũ để tìm ra khuôn vần, nhạc điệu và hình thức của các thể thơ mới. Khi Thơ mới đang trên hành trình vận động của nó (vài năm đầu của thập niên 40 - thế kỷ XX), ngoài các ý kiến ngắn về Thơ mới tiếp tục xuất ổi bật là Việt Nam văn học sử yếu (1941) của Dương Quảng Hàm [59] và Thi nhân Việt Nam (1942) của Hoài Thanh - Hoài Chân [175]. Dương Quảng Hàm bước đầu khảo cứu âm luật và thể cách của Thơ mới. Đặc biệt, Hoài Thanh - Hoài Chân với Thi nhân Việt Nam, nhất là bài viết Một thời đại trong thi ca, đã tỏ ra rất nhạy cảm, xác đáng trong tinh tuyển, tổng duyệt, tổng luận thế nào là Thơ mới, trong đó có vấn đề các thể thơ. Vấn đề các thể thơ của Thơ mới, tuy chưa được Hoài Thanh - Hoài Chân đi sâu khảo sát (hai ông tập trung nhiều hơn về cái tôi của Thơ mới), nhưng những ý kiến của các ông rất có ý nghĩa.
Từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Thơ mới cũng như việc nghiên cứu Thơ mới trải nhiều thăng trầm. Ở miền Bắc, do thực tiễn, nhiệm vụ cách mạng đặt ra cho văn nghệ nói chung và cái nhìn về văn học lãng mạn chưa được “cởi trói”, việc nghiên cứu Thơ mới còn ít, sự đánh giá Thơ mới chưa thỏa đáng, nhất là về nội dung
tư tưởng. Thành tựu nghiên cứu về Thơ mới trong thời gian này, đáng chú ý nhất là công trình Thơ ca Việt Nam hình thức và thể loại của Bùi Văn Nguyên - Hà Minh Đức [124]. Trong công trình này, ở chương V: Các thể thơ ca trong phong trào Thơ mới, Hà Minh Đức đã thống kê, khảo sát, phân tích khá thuyết phục các thể được dùng phổ biến của phong trào Thơ mới, nhất là trên phương diện thi pháp thể thơ. Ngoài ra, các công trình Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại của Hà Minh Đức [47], Phong trào Thơ mới của Phan Cự Đệ [33] cũng khẳng định những đóng góp to lớn về nghệ thuật của Thơ mới, trong đó ít nhiều có đề cập đến các thể thơ.
Có thể bạn quan tâm!
- Hệ thống thể loại truyền thống trong Thơ Mới 1932 - 1945 - 1
- Hiện Tượng Thơ Mới 1932 - 1945 Trong Lịch Sử Thơ Ca Dân Tộc
- Loại Hình Thơ Mới 1932 - 1945, Nhìn Từ Góc Độ Thể Thơ
- Vị Thế Của Các Thể Truyền Thống Trong “Bảng” Thể Thơ Của Thơ Mới
Xem toàn bộ 183 trang tài liệu này.
Trong giai đoạn này, ở miền Nam, Thơ mới được đánh giá cao, được đưa vào giảng dạy trong nhà trường. Các công trình: Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (tập III, 1961) của Phạm Thế Ngũ [119], Khảo luận luật thơ của Lam Giang [54], Những bước đầu của báo chí, tiểu thuyết và Thơ mới của Bùi Đức Tịnh [165],… có quan tâm Thơ mới trên phương diện thể thơ. Tuy nhiên, ở các công trình trên, các thể thơ của Thơ mới mới chỉ được giới thiệu một cách khái quát, các tác giả chủ yếu nghiêng về miêu tả những biểu hiện “bề mặt”, chứ chưa đi sâu tìm hiểu tính đặ
ức năng, nội dung và thi pháp các thể của Thơ mới.
Từ 1975, sau ngày đất nước thống nhất, vấn đề đánh giá Thơ mới vẫn trượt theo quán tính phủ định. Từ 1986 (kể từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI) đến nay, trong bối cảnh thời kỳ đổi mới, hội nhập (với thế giới), Thơ mới và nhiều hiện tượng văn học tiền chiến được nhìn nhận lại, được quan tâm, đánh giá một cách bình tĩnh, khách quan và khoa học hơn. Xu hướng nghiên cứu văn học theo nhiều phương pháp mới, trong đó có phương pháp loại hình, ngày càng chứng tỏ tính ưu việt của nó. Trong xu thế đó, loại hình Thơ mới 1932 - 1945, nhất là từ góc độ thể thơ cũng được quan tâm nhiều và được đánh giá cao. Phổ biến nhất là các bài viết đăng trên các báo, tạp chí (từ trung ương đến địa phương), bsite
: Tiếp nhận ảnh hưởng của thơ truyền thống (Xuân Diệu) [31], Cái mới của Thơ mới từ xung khắc đến hòa giải với truyền thống (Trần Đình Hượu) [75], Cuộc cải cách của phong trào Thơ mới và tiến trình thơ tiếng Việt (Lại Nguyên Ân) [7], Thơ mới và sự đổi mới thi pháp thơ trữ tình tiếng Việt (Trần Đình Sử) [154], Loại hình câu thơ của Thơ mới (Lê Tiến Dũng) [21], Địa vị lịch sử của phong trào Thơ mới (Trần Đình Sử) [158], Vấn đề mới cũ trong thơ Việt Nam trước 1945 nhìn từ phong trào Thơ mới (Lưu Khánh Thơ) [181], Thơ mới thành công và thất bại của thành công (Đỗ Lai Thúy) [188], Thể Thơ mới nhìn từ sự vận động nội tại của thể
loại văn học (Hoàng Thị Huế) [71], Hình thức Thơ mới với các thể thơ đặc trưng đột phá từ thơ cổ điển (Nguyễn Huệ Chi) [13],… Gần đây xuất hiện một số bài viết theo hướng nghiên cứu chuyên sâu những thể thơ riêng lẻ của Thơ mới như: Bằng trắc thơ bảy chữ Xuân Diệu (Lý Toàn Thắng) [163], Thể tám tiếng trong thơ Việt Nam [24] và Thơ tự do, khuynh hướng chủ yếu trong thơ Việt Nam đương đại (Lê Tiến Dũng) [23], Mối quan hệ giữa hát nói và Thơ mới (Nguyễn Đức Mậu) [108],…
Vấn đề các thể thơ của Thơ mới cũng được đề cập trong các công trình là chuyên luận, chuyên khảo hoặc giáo trình dùng trong các trường đại học. Tiêu biểu là các công trình: Ngôn ngữ thơ (Nguyễn Phan Cảnh) [11], Văn học lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945 (Phan Cự Đệ) [34], Thơ mới - bình minh thơ Việt Nam hiện đại (Nguyễn Quốc Túy) [167], Góp phần tìm hiểu nghệ thuật thơ ca (Bùi Công Hùng) [72], Con mắt thơ (Đỗ Lai Thúy) [186], Thi pháp hiện đại (Đỗ Đức Hiểu) [66], Tìm hiểu thơ (Mã Giang Lân) [89], Lịch sử văn học Việt Nam 1930 - 1945 (Giáo trình lịch sử văn học ễn Đăng Mạnh) [106], Cấu trúc thơ (Thụy Khuê) [86], Thơ, v.v…và v.v... (Nguyễn Hưng Quốc) [145],… Hầu hết các bài viết và công trình, hoặc , hoặc mới chỉ nghiên cứu một phương diện nào đó của các thể thơ, hoặc tìm hiểu các thể thơ chưa phải vì i mà vì mục đích khác theo tư tưởng của người nghiên cứu. Ngoài ra, còn có dạng các công trình đi vào vấn đề thể thơ thuộc phong cách riêng của các nhà thơ, như: Thế giới nghệ thuật thơ Chế Lan Viên của Hồ Thế Hà [55], Ba đỉnh cao Thơ mới Xuân Diệu - Nguyễn Bính - Hàn Mặc Tử của Chu Văn Sơn [150], Thơ tình Xuân Diệu (Lưu Khánh Thơ) [179], Thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng tám 1945 của Lý Hoài Thu [183], ệu, thời kỳ trước 1945 (Lê Quang Hưng) [74], Thế Lữ, nghệ sĩ hai lần tiên phong của Phan Trọng Thưởng [190],...
Dưới dạng là các khóa luận tốt nghiệp đại học, các luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ, vấn đề thể thơ của Thơ mới ngày càng được khai thác nhiều. Nổi bật có: Kết cấu thơ trữ tình (Phan Huy Dũng) [26], Thơ tình trong Thơ mới (Lê Hồ Quang) [142], Thơ Đường luật Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX (Trần Thị Lệ Thanh) [174], Thơ mới với thơ Đường (Lê Thị Anh) [5 ận án Tiến sĩ Thơ mới 1932 - 1945 nhìn từ sự vận động thể loại của Hoàng Sĩ Nguyên [121]. Đây là công trình đầu tiên đi sâu vào các thể thơ của Thơ mới để tìm hiểu tiến trình vận động, sự tương tác giữa các yếu tố thể thơ một cách khá công phu, hệ thống; từ đây cung cấp một cái nhìn khách quan về con đường nảy sinh, phát triển và thành tựu của Thơ
mới, vị trí của Thơ mới trong văn mạch dân tộc. Song, vấn đề đặc trưng các thể thơ không phải là mục đích chính của đề tài nên chưa được tác giả luận án chú trọng.
Nhìn chung, Thơ mới và vấn đề thể thơ của Thơ mới đã được quan tâm, nghiên cứu nhiều. Tuy nhiên, chưa có công trình nào tập trung khảo sát hệ thống thể thơ của Thơ mới một cách đầy đủ, hệ thống. Trên lịch trình nghiên cứu hơn tám mươi năm qua, Thơ mới, nhất là ở phương diện các thể thơ vẫn còn nhiều bỏ ngỏ.
1.2. Vấn đề nghiên cứu các thể thơ truyền thống trong Thơ mới 1932 - 1945
Các thể thơ truyền thống (bao hàm cả các thể thơ du nhập và các thể thơ thuần Việt) trong Thơ mới, nhất là các thể lục bát (LB), song thất lục bát (STLB), ảnh hưởng của thể hát nói (HN) đến thể 8 chữ, và thơ Đường luật (ĐL), trên phương diện lý thuyết và trong lịch sử văn học dân tộc nói chung, được nhiều nhà nghiên cứu rất quan tâm. Trước 1945, Dương Quảng Hàm trong Việt Nam văn học sử yếu bước đầu khảo sát âm luật cùng thể cách Thơ mới và nhận thấy “phần nhiều là những bài viết theo lối câu có số chữ nhất định” mà “thường dùng” nhất là lối câu 5 chữ, 7 chữ, 8 chữ [59, 431-432]. Hoài Thanh trong Một thời đại trong thi ca ít nhiều chú ý nhận diện một số thể thơ dân tộc trong Thơ mới: “Thơ Đường luật vừa động đến là tan. Thất ngôn và ngũ ngôn rất thịnh. Ca trù biến thành thơ 8 chữ. Lục bát vẫn được trân trọng: ảnh hưởng Truyện Kiều và ca dao. Song thất lục bát cơ hồ chết, không hiểu vì sao. Thơ 4 chữ trước chỉ thấy trong những bài vè, nay cất lên hàng những thể thơ nghiêm chỉnh. Lục ngôn thể trước chỉ thấy trong Bạch Vân thi tập thỉnh thoảng cũng được dùng. Từ khúc chết dần với thơ tự do…” [175, 42]. Đặc biệt nhất phải kể đến ý kiến của chính những người đương thời Thơ mới bàn về Thơ mới (được nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Sơn tập hợp thành nhiều bài viết như Người đương thời Thơ mới bàn về thơ Xuân Diệu, Người đương thời Thơ mới bàn về thơ Huy Cận, Người đương thời Thơ mới bàn về thơ Lưu Trọng Lư, v.v… đăng tải rộng rãi trên http://phongdiêp.net), trong đó vấn đề các thể truyền thống của Thơ mới cũng được đề cập rải rác ở một vài khía cạnh. Quách Tấn còn có hẳn một công trình bàn về Thi pháp thơ Đường [161] và khẳng định nét mới trong các sáng tác ĐL của chính mình,…
Từ 1945 đến 1986, dù có nhiều ý kiến đánh giá không thống nhất và số lượng công trình nghiên cứu về Thơ mới không nhiều, song Thơ mới, và nhất là vấn đề thể thơ của Thơ mới vẫn được các nhà lí luận, nghiên cứu đặc biệt chú ý. Một số công trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc, công phu về Thơ mới thời kỳ này có đề
cập đến các thể thơ truyền thống. Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên khi nói đến “sự đổi mới về thể cách” đã nhận xét: “Đa số là các bài 5 chữ, 7 chữ và 8 chữ… Về sau thơ phá thể làm ra ngày càng ít, người ta tự nhiên đi vào mấy điệu đều đặn và cố định,… Điệu 5 chữ tương tự thơ ngũ ngôn xưa, điệu 7 chữ tương tự thơ thất ngôn xưa và điệu 8 chữ”, “Thơ Đường mặc dầu bị công kích hết sức cũng không biến hẳn, thơ lục bát về sau được đưa lên chỗ danh dự, song thất lục bát bị sa thải, thơ hát nói biến thành lối thơ 8 chữ, Thế Lữ khai trương rồi trở thành một sở trường của Xuân Diệu và những nhà viết kịch thơ sau này”, các nhà thơ mới “chống lại lối đối chọi gò ép, cấu tứ khuôn sáo, những điều lệ tuân hành một cách máy móc cũng như cái giới hạn bát cú của thơ Đường. Họ buông theo lối thả vần dễ dàng của thơ lục bát, nhưng họ không ưa lối kết vần ràng rịt máy móc của song thất… Họ có khuynh hướng vần bằng hơn là vần trắc, vần cước hơn là vần yêu. Họ ưa những bài năm chữ thả dài để gợi mở một tâm tư súc tích ẩn kín và tìm ra câu thơ 8 chữ để trang trải nỗi xúc động mênh mông tràn ngập tâm hồn” [119, 568-573]. Nói về “thơ cũ”, “thơ mới”, Lam Giang có ý kiến: “Hình thức Thơ mới vẫn hiển nhiên khác hẳn với lối thơ thất ngôn bát cú. Một số luật Đường về ngũ tuyệt, thất tuyệt vẫn được các nhà thơ mới ưa dùng và trong khi ấy câu thơ 8 tiếng của trường Thơ mới cũng tiến dần đến một hình thức có khuôn phép ổn định” [54, 66-67]. Đến 1971, vấn đề nghiên cứu các thể thơ trong Thơ mới đạt một bước tiến mới, được đánh dấu bởi sự ra đời của công trình Thơ ca Việt Nam, hình thức và thể loại (Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức). Bên cạnh việc khảo sát, phân tích khá thuyết phục một số đặc trưng thi pháp của các thể thơ truyền thống (như vần, nhịp, thanh điệu, ngôn ngữ), Hà Minh Đức đã có những ý kiến sâu sắc về chức năng, nội dung các thể thơ này trong thời đại mới. Ông nhận diện khuynh hướng của thể LB (“Thể thơ lục bát trong thời kỳ thơ mới được khai thác theo hai khuynh hướng: khuynh hướng “hiện đại hóa” và khuynh hướng trở về với ca dao” [124, 383]), khẳng định khả năng trữ tình ở thể 5 từ (“Thể thơ 5 từ của phong trào Thơ mới không cô đúc một cách gò bó như ngũ ngôn Đường luật, mạch thơ mở rộng hơn, tứ thơ bay bổng và tình ý thiết tha hơn” [124, 372]) và xác nhận mối quan hệ cội nguồn giữa thể 8 chữ và HN cùng những cách tân của các nhà thơ mới (“Các nhà thơ mới đã sáng tạo được thể thơ 8 từ trên cơ sở khai thác và kế thừa hình thức hát nói của thơ ca dân tộc. Thể 8 từ với nhịp điệu uyển chuyển, với sự không hạn định của số câu và với cách hiệp vần rộng rãi đã trở nên một thể thơ có khả năng biểu hiện khá sinh động”
[124, 119]). Ở công trình Phong trào Thơ mới, Phan Cự Đệ giành hẳn một chương (chương VI) để bàn về “nghệ thuật của phong trào Thơ mới lãng mạn”. Sau khi tổng thuật công cuộc định giá các thể của Thơ mới, tác giả kết luận: “Thơ mới thực chất ra không phải là lối thơ tự do. Lúc đầu nó phá ra một cách phóng túng, nhưng dần dần nó trở nên nhuần nhị và dừng lại ở một số thể thơ quen thuộc. Số chữ trong câu có thể từ 2 chữ (Sương rơi) đến hơn 10 chữ nhưng dùng nhiều nhất là lối thơ 5 chữ, 7 chữ, 8 chữ. Số câu trong bài không nhất định, thường thường mỗi bài chia làm nhiều khổ, mỗi khổ 4 câu” [33, 168-169]. Công trình Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại của Hà Minh Đức [47] cũng điểm qua một vài thể thơ truyền thống của Thơ mới, nhưng mới chỉ dừng lại ở những ví dụ nhỏ, tản mạn.
Từ những năm 80 của thế kỷ XX đến nay, vấn đề các thể thơ truyền thống trong Thơ mới thu hút sự quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu. Trong đó, ĐL, LB, 8 chữ (vốn thoát thai từ HN) là những thể được ưu tiên nghiên cứu hàng đầu trong hệ thống thể thơ truyền thống của Thơ mới. Các bài viết riêng về các thể thơ đăng trên các báo, tạp chí, website nở rộ: Những đóng góp mới trong việc nghiên cứu thể loại thơ lục bát [82] và Về việc vận dụng thi pháp ca dao trong thơ trữ tình hiện nay của Nguyễn Xuân Kính [83], Một số cách tân trong thể thơ lục bát hiện đại của Hà Quảng [144], Bằng trắc thơ bảy chữ Xuân Diệu của Lý Toàn Thắng [170], Tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển của thể thơ song thất lục bát của Ngô Văn Đức [50], Thơ lục bát Việt Nam, lạm bàn và Lục bát, một thể thơ anh minh của Nguyễn Trọng Tạo [159], Thơ Đường luật Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX: một số lượng đáng kinh ngạc [171], Quách Tấn với thơ Đường luật [172] và Âm vang của luật Đường trong phong trào Thơ mới [173] đều của Trần Thị Lệ Thanh, v.v…
Các chuyên luận, chuyên khảo hoặc giáo trình dùng trong các trường đại học, đặc biệt là các tuyển tập, công trình, luận án nghiên cứu về các thể thơ truyền thống của Thơ mới xuất hiện ngày càng nhiều. Trong Thơ mới và sự đổi mới thi pháp thơ trữ tình Việt Nam, Trần Đình Sử chú ý đến việc cách tân loại hình câu thơ của Thơ mới: “Thơ mới đã mang một nhãn quan mới về ngôn ngữ thơ… Thơ mới đã căn bản cải tạo lại thơ trữ tình tiếng Việt từ câu thơ điệu ngâm sang câu thơ điệu nói” [154, 108]. Nguyễn Bá Thành với Tư duy thơ và tư duy thơ Việt Nam hiện đại khẳng định công lao “phát triển, hoàn chỉnh và cải tiến các thể thơ dân tộc” của phong trào Thơ mới: “Chính cuộc đấu tranh chống cái cũ ấy đã đạt đến thành tựu bất ngờ là hoàn chỉnh thơ lãng mạn, đẩy các thể thơ dân tộc đến một đỉnh cao “cổ điển” khác. Họ đã
làm được một việc mà nền thơ dân tộc sẽ phải ghi công: phát triển, cải tiến và hoàn chỉnh các thể thơ dân tộc trước khi Cách mạng thành công. Thơ 2 chữ của Nguyễn Vỹ, thơ 5 chữ của Vũ Đình Liên, thơ 7 chữ của Huy Cận, Chế Lan Viên, Thâm Tâm, Vũ Hoàng Chương, thơ lục bát của Nguyễn Bính, thơ 8 chữ của Thế Lữ,… Có những bài đã đạt đến chuẩn mực “cổ điển” trong phương thức trữ tình” [176, 323]. Vũ Tuấn Anh trong các công trình Văn học Việt Nam hiện đại - nhận thức và thẩm định [3] và Sự vận động của cái tôi trữ tình và tiến trình thơ ca [4] đã đề cập đến “sự hoàn chỉnh và tính năng động của thể loại trong đời sống văn học 1930 - 1945”. Tác giả cho rằng: việc Thơ mới tìm về, cách tân các thể thơ truyền thống “là sự hòa giải tỉnh táo của ý thức thể loại” [4, 36]. Với Loại hình câu thơ của Thơ mới [21] và Thể 8 tiếng trong thơ Việt Nam [24], Lê Tiến Dũng đã đưa ra những ý kiến mới về sự vận động, tiếp thu thể thơ truyền thống, sự ảnh hưởng của thơ phương Tây và sự sáng tạo của thể thơ 8 chữ trong Thơ mới. Đồng thời, tác giả có so sánh sự khác nhau của một số thể thơ mới và thơ cũ. Trong Thơ mới, những bước thăng trầm, Lê Đình Kỵ khảo sát qua các loại câu thơ và nhận xét: “Câu thơ thất ngôn, ngũ ngôn không còn độc tôn, Thơ mới không hạn chế số câu trong mỗi bài thơ, không quy định số từ bắt buộc cho mỗi dòng thơ. Câu thơ có thể đi từ 2 từ đến 9, 10 từ” [84, 119]. Bàn về Thơ Việt Nam trong tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc, Vũ Văn Sỹ nhận thấy: “Thơ mới đã kết hợp được truyền thống thơ lâu đời của dân tộc như câu 8 âm tiết trong ca trù, xử lí lại câu thơ thất ngôn và ngũ ngôn Đường luật, thơ lục bát… Đặc biệt nó đã tiếp nhận được một phần kinh nghiệm nghệ thuật của ngót trăm năm thơ Pháp từ các trường phái lãng mạn đầu thế kỷ XIX (Chateaubriand, Lamartine, Musset, Vigny, Hugo) qua Baudelaire đến các trường phái hiện đại khác” [148, 16],…
Nổi bật hiện nay là các công trình nghiên cứu theo hướng chuyên sâu về các thể ọc dân tộc (trong đó có các thể thơ truyền thống trong Thơ mới) của các tác giả: Phan Diễm Phương với Lục bát và song thất lục bát [139], Phan Ngọc với Suy nghĩ về thể loại thơ song thất lục bát [115] và Nội dung thơ song thất lục bát [116], Nguyễn Đức Mậu với Thể loại hát nói trong sự vận động của lịch sử văn học [110] và Mối quan hệ giữa hát nói với Thơ mới [108], Trần Thị Lệ Thanh với Thơ Đường luật Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX [174], Lê Thị Anh với Thơ mới với thơ Đường [5], Hồ Hải với Thơ lục bát Việt Nam hiện đại từ góc nhìn ngôn ngữ [57], Hoàng Sĩ Nguyên với Thơ mới 1932 - 1945 nhìn từ sự vận động thể loại [121],… Phan Ngọc bước đầu nhận diện sự đổi thay về cấu trúc, chức năng và nội