trong đó : 62 nghị định của Chính phủ, 28 quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 185 thông tư của NHNN, 9 thông tư liên tịch.
Trong số văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) đã ban hành, thì số lượng thông tư được ban hành nhiều nhất tập trung chủ yếu từ năm 2009 đến tháng 11/2013 là : 144 thông tư, chiếm tỷ lệ hơn 50% số lượng văn bản đã ban hành trong hơn 15 năm qua. Đây là sự cố gắng, nỗ lực rất lớn của NHNN, trong việc triển khai thực hiện ban hành các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn kịp thời thi hành 2 luật mới về tiền tệ, ngân hàng.
Nếu tính luôn số lượng văn bản là các quyết định, chỉ thị thuộc thẩm quyền ban hành của NHNN theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 thì số lượng văn bản đã ban hành từ năm 1997 tăng thêm 214 văn bản (trong đó 158 quyết định, 56 chỉ thị).
Nhìn chung, hoạt động quản lý của NHNN đã tạo khung pháp lý về hoạt động NHTM ngày càng thông thoáng và minh bạch hơn; từng bước theo chuẩn mực và thông lệ quốc tế; góp phần hạn chế phân biệt đối xử giữa các loại hình NHTM, giữa các NHTM trong nước và NH nước ngoài; mở rộng quyền tự chủ trong hoạt động kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của các NHTM; bảo đảm sự chặt chẽ, thận trọng trong hoạt động NHTM; nâng cao năng lực quản lý, giám sát của NHNN đối với hoạt động của NHTM đảm bảo an toàn và ổn định.
Trong đó, (1) Luật NHNN Việt Nam và Luật Các TCTD với những đổi mới căn bản đã được Quốc hội Khóa XII thông qua tại Kỳ họp thứ 7 (ngày 16/6/2010) tạo cơ sở pháp lý nâng cao một bước trách nhiệm, thẩm quyền và tính chủ động của NHNN trong việc sử dụng các công cụ nhằm thực hiện CSTT cũng như quản lý, giám sát an toàn hoạt động của hệ thống NHTM; giảm bớt thủ tục hành chính, tăng quyền tự chủ cho các NHTM.(2) Tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM đẩy mạnh huy động các
nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội và mở rộng tín dụng, đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế; (3) Đáp ứng tốt hơn các nhu cầu của xã hội về các dịch vụ ngân hàng hiện đại, thúc đẩy hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt phát triển, góp phần tăng tốc độ luân chuyển vốn của nền kinh tế; (4) Đối với cơ chế tín dụng, đã thực hiện đổi mới cơ chế tín dụng theo hướng nâng cao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các NHTM trong việc : quyết định cho vay (điều kiện vay vốn, mức vay, thời hạn vay, lãi suất cho vay, phương thức cho vay…); lựa chọn khách hàng; sử dụng biện pháp bảo đảm tiền vay trên nguyên tắc thương mại, phù hợp với chiến lược kinh doanh. Đối với chính sách tín dụng về nguyên tắc đã hướng tới sự bình đẳng, thông thoáng hơn trong việc tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng của cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.(5) Để bảo đảm sự chặt chẽ, thận trọng trong hoạt động NHTM, NHNN đã xây dựng ban hành hệ thống các quy định an toàn trong hoạt động ngân hàng (quản lý rủi ro, phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro, quy định về tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng, tỷ lệ sử dụng nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn; mức độ đủ vốn, minh bạch hoá hoạt động ngân hàng..) từng bước phù hợp theo các tiêu chuẩn quốc tế. (6) Nâng cao tính minh bạch và lành mạnh hoá hoạt động của các ngân hàng, tạo điều kiện nâng cao sức cạnh tranh của hệ thống ngân hàng Việt Nam, từng bước hội nhập quốc tế.
2.2.3- Tổ chức bộ máy quản lý đối với hoạt động Ngân hàng thương mại ở Việt Nam
Nhìn lại 15 năm qua, chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của NHNN không ngừng được đổi mới đáng kể theo hướng tinh gọn, phù hợp nhằm thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ quản lý về hoạt động ngân hàng và thực hiện chức năng NHTW.
Có thể bạn quan tâm!
- Cơ Cấu Tổ Chức Bộ Máy Của Nhnn Việt Nam Theo Nghị Định Số 156/2013/nđ-Cp
- Thị Phần Huy Động Vốn Và Tín Dụng Của Các Ngân Hàng Thương Mại Từ Năm 2005 – 2013 (%)
- Đánh Giá Chung Về Kết Quả Hoạt Động Của Các Ngân Hàng Thương Mại Ở Việt Nam
- Về Xây Dựng Và Hoàn Thiện Khung Pháp Cho Hoạt Động Của Các Nhtm Và Quản Lý Của Ngân Hàng Nhà Nước.
- Cơ Hội, Thách Thức Trong Việc Nâng Cao Hiệu Quả Quản Lý Của Ngân Hàng Nhà Nước Đối Với Hoạt Động Của Các Nhtm Ở Việt Nam
- Giải Pháp Tiếp Tục Nâng Cao Vị Thế Độc Lập; Hoàn Thiện Cấu Trúc Tổ Chức Quản Lý, Giám Sát Của Ngân Hàng Nhà Nước Theo Hướng Ngân Hàng Trung Ương
Xem toàn bộ 147 trang tài liệu này.
Chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị thuộc NHNN đã được quy định rõ ràng, cụ thể hơn, khắc phục được tình trạng chồng chéo, trùng lắp nhiệm
vụ giữa các đơn vị tại trụ sở chính NHNN và mở rộng phân cấp, nâng cao vai trò quản lý của NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố trên địa bàn. Cơ cấu tổ chức của các đơn vị cũng được đổi mới phù hợp hơn với chức năng, nhiệm vụ của từng đơn vị.
Bên cạnh việc đổi mới cơ cấu tổ chức bộ máy, NHNN không ngừng quan tâm xây dựng, phát triển nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức trên cơ sở mục tiêu đề ra : trẻ hóa đội ngũ cán bộ, công chức NHNN; có năng lực, trình độ nghiệp vụ chuyên môn cao, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ công tác của NHNN và bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng.
Từ tháng 10/2004, NHNN đã triển khai thực hiện Đề án “Xây dựng từng bước nhóm cán bộ, công chức nòng cốt, trình độ cao, nghiệp vụ vững vàng, có khả năng trở thành những chuyên gia trong từng lĩnh vực chuyên môn”. NHNN đã không ngừng tổ chức bồi dưỡng, đào tạo, đào tạo lại nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ, công chức. Trong đó, đào tạo nghiệp vụ chuyên môn cho khoảng 500 lượt cán bộ, công chức trong diện quy hoạch đào tạo chuyên gia, đào tạo dài hạn sau đại học cho khoảng hàng trăm cán bộ, công chức; giai đoạn 2001-2012, đã có trên 3.000 lượt cán bộ, công chức được tham dự các lớp bồi dưỡng Quản lý Nhà nước; hơn 1.000 lượt cán bộ tham dự các lớp kỹ năng mềm; hàng trăm cán bộ, công chức đã được cử tham gia các chương trình đào tạo tại nước ngoài, nâng cao trình độ và tiếp cận với kiến thức, nghiệp vụ chuyên môn mới.
Nhìn chung, cán bộ, công chức được cử tham gia các khóa bồi dưỡng, đào tạo, đào tạo lại năm sau cao hơn năm trước, nhờ đó chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức đã được nâng lên, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công việc. Đội ngũ cán bộ, công chức có trình độ nghiệp vụ chuyên môn sâu tại NHNN cơ bản bước đầu được hình thành, có khả năng
đảm đương thực hiện được các nhiệm vụ; nâng cao khả năng tham mưu, xử lý, giải quyết công việc cũng như kỹ năng quản lý điều hành.
Công tác tuyển dụng, đánh giá, quy hoạch, quản lý và sử dụng cán bộ, công chức cũng có nhiều đổi mới, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức. Cơ chế tiền lương và các chế độ, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, công chức được cải thiện, nhờ đó động viên và khuyến khích cán bộ, công chức làm việc hiệu quả, có trách nhiệm với công việc được giao.
NHNN cũng đã ban hành Quy tắc ứng xử đối với cán bộ, công chức, viên chức nhằm giúp cán bộ, công chức, viên chức NHNN tuân thủ nghiêm các quy định của pháp luật và nâng cao ý thức trách nhiệm trong công tác phòng, chống tham nhũng.
2.2.4- Về sử dụng công cụ chính sách tiền tệ trong quản lý, điều tiết đối với hoạt động Ngân hàng thương mại ở Việt Nam
Để góp phần nâng cao hiệu quả quản lý đối với hoạt động của các NHTM, NHNN đã không ngừng hoàn thiện việc điều hành CSTT dựa theo nguyên tắc thị trường. Điều hành CSTT được đổi mới từng bước trong việc xác định mục tiêu CSTT, việc cung ứng tiền, điều tiết tiền tệ thông qua việc lựa chọn sử dụng đồng bộ các công cụ CSTT. NHNN đã dần loại bỏ các công cụ trực tiếp và chuyển sang sử dụng các công cụ gián tiếp để nâng cao hiệu quả của CSTT, các công cụ CSTT đã được thiết lập và từng bước hoàn thiện theo thông lệ quốc tế.
Đến nay các công cụ CSTT đã được NHNN sử dụng trong điều hành CSTT gồm : nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ tái chiết khấu, tái cấp vốn và một số công cụ khác. Về cơ bản, CSTT đã đạt được mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền; kiểm soát lạm phát; góp phần đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống NHTM; nhờ đó mà các NHTM không
ngừng đẩy mạnh huy động vốn, cung ứng vốn cho mục tiêu đầu tư phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam.
2.2.5- Công tác thanh tra, giám sát đối với hoạt động Ngân hàng thương mại ở Việt Nam
- Khuôn khổ pháp lý về thanh tra, giám sát ngân hàng từng bước theo các chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Hệ thống pháp luật về thanh tra, giám sát ngân hàng của Việt Nam ngày càng được củng cố. Việc ban hành Luật NHNN, Luật các TCTD, Luật Thanh tra thay thế cho các văn bản không còn phù hợp với thực tiễn đã thay đổi nhanh chóng, qua đó góp phần hoàn thiện một bước quan trọng về khuôn khổ pháp lý về thanh tra, giám sát ngân hàng, tạo nền tảng pháp lý cho việc hình thành và hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động thanh tra ngân hàng phù hợp với thực tiễn Việt Nam, từng bước theo chuẩn mực và thông lệ quốc tế.
Theo đó, nhiệm vụ, quyền hạn, quy trình, thủ tục và các chế tài về thanh tra, giám sát ngân hàng rõ ràng, chặt chẽ và hợp lý hơn. Cụ thể Luật NHNN Việt Nam 2010 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2011 thay thế Luật NHNN 1997 - được sửa đổi, bổ sung vào năm 2003 đã góp phần đánh dấu qúa trình hoàn thiện khung pháp lý về hoạt động thanh tra, giám sát của NHNN. So với các quy định về Thanh tra ngân hàng trước đây, Luật NHNN 2010 đã có nhiều đổi mới cơ bản về hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng : (i) Tiếp tục khẳng định sự hiện diện của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng, thuộc cơ cấu tổ chức của NHNN; bổ sung về hoạt động giám sát ngân hàng : bao gồm hai hoạt động “thanh tra ngân hàng” và “giám sát ngân hàng” trong hoạt động của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng. (ii) Thanh tra, giám sát ngân hàng phải đảm bảo các mục đích sau : bảo đảm sự phát triển lành mạnh của hệ thống ngân hàng và các TCTD; duy trì và nâng cao lòng tin của công chúng đối với hệ thống ngân hàng và TCTD; bảo đảm việc chấp hành chính sách, pháp luật về tiền tệ và
ngân hàng; góp phần nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng. (iii) Quy định nguyên tắc thanh tra, giám sát ngân hàng : Kết hợp thanh tra, giám sát việc chấp hành chính sách, pháp luật về tiền tệ và ngân hàng với thanh tra, giám sát rủi ro trong hoạt động của đối tượng thanh tra, giám sát ngân hàng. Đây là nguyên tắc chi phối cả nội dung, phương pháp, cách thức tổ chức hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng. (iv) Quy định bổ sung đối tượng thanh tra gồm : công ty con, công ty liên kết của ngân hàng, TCTD; tổ chức có hoạt động ngoại hối, họat động kinh doanh vàng; tổ chức hoạt động thông tin tín dụng; tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán không phải là ngân hàng. Về căn cứ ra quyết định thanh tra : Khi có dấu hiệu rủi ro đe dọa sự an toàn hoạt động của NHTM. (v) Bổ sung, quy định rõ các nội dung thanh tra : Xem xét, đánh giá mức độ rủi ro, năng lực quản trị rủi ro và tình hình tài chính của đối tượng thanh tra ngân hàng… (vi) Quy định bổ sung đối tượng và nội dung giám sát ngân hàng; phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền thanh tra, giám sát công ty con, công ty liên kết của ngân hàng, TCTD; phối hợp với cơ quan có thẩm quyền thanh tra, giám sát ngân hàng của nước ngoài.
- Tổ chức bộ máy Thanh tra, giám sát từng bước được cơ cấu lại, nhằm nâng cao năng lực hoạt động thanh tra, giám sát. Chính phủ đã cho phép hình thành Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng thuộc cơ cấu tổ chức của NHNN (trước đây là Nghị định số 96/2008/NĐ-CP ngày 26/8/2008 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của NHNN Việt Nam, nay là Nghị định số 156/2013/NĐ-CP ngày 11/11/2013 tiếp tục khẳng định Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng thuộc cơ cấu tổ chức của NHNN). NHNN đã phối hợp với các cơ quan liên quan trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định về thành lập, tổ chức và hoạt động của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng với 4 nhiệm vụ chính là : cấp, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động ngân
hàng; xây dựng các chính sách, quy định về an toàn hoạt động ngân hàng; giám sát từ xa, thanh tra tại chỗ; xử lý vi phạm trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
- Từng bước xây dựng được nội dung giám sát theo kịp với sự phát triển của hoạt động ngân hàng và các yêu cầu của thông lệ quốc tế. Thời gian qua bên cạnh sự phát triển đa dạng của hệ thống NHTM cả về quy mô và loại hình hoạt động, thì hoạt động thanh tra giám sát của NHNN không ngừng được đổi mới, ngoài việc kiểm tra tính tuân thủ của các NHTM, Thanh tra, giám sát còn định hướng việc nghiên cứu xây dựng hệ thống giám sát NHTM dựa trên cơ sở rủi ro.
Các quy định về : giám sát từ xa; xếp loại NHTM; tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng; phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro….được xây dựng từng bước dựa trên các nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế đã góp phần phục vụ cho công tác giám sát bảo đảm an toàn cho từng NHTM riêng lẻ, cũng như hệ thống NHTM.
Nội dung giám sát từ xa bao gồm việc đánh giá các nội dung sau của NHTM : diễn biến về cơ cấu tài sản Nợ và tài sản Có; chất lượng tài sản Có; vốn tự có; tình hình thu nhập, chi phí và kết quả kinh doanh; việc thực hiện quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của NHTM..(Quyết định số 398/1999/QĐ-NHNN3 ngày 09/11/1999 của Thống đốc NHNN).
Các chuẩn mực quốc tế về bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng theo Basel I, II đã bắt đầu được nghiên cứu áp dụng và ngày càng được nâng cao theo sự phát triển về quy mô và mức độ phức tạp trong hoạt động kinh doanh của các NHTM. Quy định xếp loại NHTMCP dựa trên nguyên tắc đánh giá CAMEL nhằm đưa ra các thang điểm để xếp loại cụ thể đối với NHTMCP theo thứ tự từ tốt đến xấu (phân hạng A, B, C, D) (Theo Quyết định số 06/2008/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN).
- Thực hiện phối hợp giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ đối với hoạt động NHTM. Thanh tra tại chỗ nhằm kiểm tra tính tuân thủ của các NHTM là hoạt động thanh tra truyền thống. Thời gian qua, hoạt động thanh tra tại chỗ từng bước được phối hợp với hoạt động giám sát từ xa. Hoạt động giám sát từ xa thực hiện việc theo dõi thường xuyên tình trạng của từng NHTM, cũng như của hệ thống NHTM. Qua đó tổng hợp, phân tích được liên tục hoạt động của các NHTM qua từng năm, phát hiện, cảnh báo sớm đối với NHTM các rủi ro và các vấn đề nổi cộm trọng yếu để có biện pháp xử lý, chấn chỉnh kịp thời. Hoạt động giám sát từ xa của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng là nhân tố quan trọng trong việc góp phần nâng cao chất lượng hoạt động thanh tra tại chỗ.
Trên cơ sở kết quả giám sát từ xa nhận được, bộ phận thanh tra tại chỗ xây dựng các kế hoạch thanh tra theo định kỳ hoặc đột xuất đối với hoạt động của từng NHTM để thẩm tra và kiểm chứng thực tế các kết quả do bộ phận giám sát từ xa cung cấp, phát hiện các sai sót, nguy cơ trong hoạt động của NHTM, từ đó có cảnh báo, khuyến nghị hoặc xử lý đối với NHTM .
- Hoạt động thanh tra, giám sát của NHNN đã góp phần ổn định hệ thống ngân hàng. Nhìn chung, những kết quả bước đầu trong hoạt động thanh tra, giám sát của NHNN đã góp phần quan trọng trong việc bảo đảm tuân thủ pháp luật về lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng; bảo đảm an toàn cho hệ thống ngân hàng, các TCTD.
2.3- Đánh giá chung về hiệu quả quản lý của Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động của các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam
2.3.1- Những kết quả đạt được
Có thể khẳng định rằng, quản lý của NHNN đối với hoạt động NHTM cơ bản đã góp phần đạt được mục tiêu đề ra là đổi mới và phát triển hệ thống NHTM Việt Nam, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước trong tiến trình hội nhập quốc tế; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền và khách hàng của NHTM; duy trì lòng tin của công chúng đối với hệ thống các NHTM. Với các kết quả sau :
- Cơ cấu tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Nhà nước đã có những cải cách đáng kể.
Ngân hàng Nhà nước không ngừng chú trọng việc cải cách tổ chức và hoạt động nhằm thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ quản lý, giám sát đối với hoạt động của các Ngân hàng thương mại và thực hiện chức năng NHTW. Thời gian qua việc NHNN thực hiện chức năng NHTW đã hỗ trợ tích cực cho việc thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ quản lý, giám sát đối với hoạt động của hệ thống các NHTM và ngược lại thông qua việc quản lý, giám sát đối với hoạt động của các NHTM đã giúp NHNN nắm thông tin các NHTM một cách có hệ thống, tạo điều kiện nâng cao chất lượng công tác dự báo, phân tích, hoạch định, điều hành chính sách, từ đó góp phần thực hiện tốt chức năng NHTW.
- Hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng của NHNN được đổi mới và coi trọng.
NHNN xem thanh tra, giám sát là công cụ nhằm giúp NHNN nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý đối với hoạt động của hệ thống các NHTM. Cơ chế thanh tra - giám sát từng bước được đổi mới theo hướng tăng cường vai trò giám sát từ xa của Cơ quan Thanh tra, giám sát NHNN, có sự hỗ trợ của kiểm toán nội bộ, kiểm toán độc lập đối với các NHTM. Từng bước triển khai thực hiện phương pháp giám sát dựa trên cơ sở hệ thống chỉ tiêu (CAMELS); thiết lập được hệ thống thông tin, báo cáo phục vụ giám sát từ xa…. Thanh tra - giám sát đã thực hiện vai trò là công cụ quan trọng của NHNN trong việc tăng cường pháp chế, kỷ cương, kỷ luật,
hiệu lực và hiệu quả quản lý trong lĩnh vực hoạt động NHTM; xử lý kịp thời các hành vi gây mất an toàn hệ thống NHTM đã góp phần tạo điều kiện ổn định cho hệ thống NHTM.
- Hoạt động quản lý của Ngân hàng Nhà nước đã góp phần thúc đẩy các Ngân hàng thương mại nâng cao vai trò trung gian tài chính.
Thông qua hoạt động quản lý, mà NHNN tác động các NHTM ngày càng nâng cao vai trò trung gian tài chính, cung ứng ngày càng đa dạng các dịch vụ ngân hàng; hướng hoạt động của hệ thống các NHTM vào phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội theo chiến lược và kế hoạch đã đề ra.
- Hoạt động quản lý của Ngân hàng Nhà nước đã góp phần phát triển hệ thống các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam.
Hệ thống các NHTM ở Việt Nam tăng lên về số lượng, đa dạng về loại hình sở hữu, với mạng lưới hoạt động ngày càng mở rộng trong cả nước nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng về dịch vụ tài chính - ngân hàng. Quy mô tổng tài sản có và vốn điều lệ của các NHTM Việt Nam nhìn chung đều tăng lên qua các năm (như đã phân tích trên đây).
2.3.2- Một số vấn đề đặt ra trong quản lý của Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động của Ngân hàng thương mại ở Việt Nam
Bên cạnh các kết quả đạt được trên đây về quản lý đối với hoạt động NHTM ở Việt Nam trong hơn 15 năm qua, cũng còn một số vấn đề đặt ra cần nghiên cứu, từ đó đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý của NHNN đối với hoạt động của NHTM trong thời gian đến như sau :
2.3.2.1- Việc xử lý nợ xấu đã đạt được kết quả bước đầu, nhưng vẫn còn gặp nhiều khó khăn.
Thời gian qua NHNN đã có nhiều cố gắng trong việc chủ trì, phối hợp các bộ, ngành có liên quan trong việc xây dựng và trình cấp có thẩm
quyền phê duyệt, ban hành các Đề án xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD và Đề án thành lập Công ty Quản lý tài sản Việt Nam (Thông báo kết luận của Bộ Chính trị số 121-TB/TW ngày 20/02/2013; Quyết định số 843/QĐ- TTg ngày 31/05/2013 của Thủ tướng Chính phủ).
Trên cơ sở các Đề án được phê duyệt, NHNN đã chủ động phối hợp với một số bộ, ngành và địa phương triển khai thực hiện Đề án; thành lập Công ty TNHH một thành viên Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam NHNN đi vào hoạt động; ban hành các văn bản hướng dẫn và chỉ đạo các NHTM, TCTD triển khai thực hiện Đề án...
Nhìn chung, việc xử lý nợ xấu trong thời gian qua đã đạt được các kết quả bước đầu, tuy nhiên, việc xử lý nợ xấu vẫn gặp nhiều khó khăn. Theo VAMC 6 tháng đầu năm 2014 VAMC đã mua được 11.414 tỷ đồng nợ xấu từ các TCTD. Nếu tính từ ngày 11/10/2013 đến ngày 01/7/2014, tổng số nợ xấu VAMC đã mua của các TCTD là 50.721 tỷ đồng. Tuy nhiên, khi TCTD “bán” nợ xấu cho VAMC, thì TCTD chỉ “uỷ thác” việc xử lý nợ xấu cho VAMC và TCTD vẫn hoàn toàn chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ xấu này. Việc xử lý nợ xấu qua VAMC còn gặp không ít khó khăn, vướng mắc : thị trường bán nợ chưa được hình thành; khả năng tham gia mua lại nợ xấu từ VAMC của nhà đầu tư trong nước còn hạn chế, trong khi đó, việc bán nợ cho đối tác nước ngoài còn gặp nhiều khó khăn do vướng cơ chế pháp lý; việc mua bán nợ chưa theo giá thị trường; việc thay đổi bước giá, thời gian làm thủ tục còn kéo dài…
Ngoài ra, việc xử lý nợ xấu còn các khó khăn, vướng mắc khác từ môi trường kinh tế; biện pháp bán tài sản đảm bảo, khởi kiện, thi hành án vẫn gặp nhiều khó khăn về hàng lang pháp lý, uỷ quyền khởi kiện….(Phụ lục 3 Về xử lý nợ xấu). Do đó, vấn đề giải quyết cơ bản nợ xấu của các NHTM nếu chậm xử lý, giải quyết, không chỉ ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý của NHNN, mà còn ảnh hưởng đến tình hình tài chính, khả năng
cạnh tranh của NHTM sẽ bị suy giảm, thanh khoản toàn hệ thống NHTM khó khăn và nguồn vốn tín dụng cung ứng cho nền kinh tế sẽ giảm sút.
2.3.2.2- Tiến độ tái cấu trúc hệ thống ngân hàng còn chậm so với kế hoạch đề ra.
Mặc dù NHNN đã có nhiều cố gắng tích cực trong việc đề ra nhiều biện pháp thiết thực và đạt được nhiều kết quả khả quan trong việc thúc đẩy nhanh tiến độ quá trình tái cơ cấu hệ thống NHTM, nhưng cũng còn gặp phải không ít khó khăn khách quan (Phụ lục 4 Tái cấu trúc ngân hàng). Việc chậm tái cấu trúc hệ thống NHTM theo chủ trương của Chính phủ, sẽ làm giảm hiệu quả trong việc điều hành CSTT của NHNN và giảm hiệu quả quản lý đối với hoạt động của các NHTM. Hệ thống các ngân hàng thương mại nếu được cấu trúc lại một cách an toàn, lành mạnh sẽ là kênh truyền dẫn có hiệu quả của CSTT NHNN nhằm góp phần thực hiện mục tiêu kinh tế vĩ mô do Chính phủ đề ra.
2.3.2.3- Về hoạch định chiến lược, để định hướng cho hoạt động của các Ngân hàng thương mại và quản lý của Ngân hàng Nhà nước.
Chiến lược phát triển Ngành ngân hàng (trong đó có NHTM) đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 (Quyết định số 112/2006/QĐ- TTg) đã được công bố công khai (trên website của Chính phủ và của NHNN) và có một số tác dụng tích cực như đã phân tích trên đây. Tuy nhiên, trên thực tế cần có phân tích đánh giá tổng quát tình hình thực hiện Chiến lược đã được hoạch định cho giai đoạn vừa qua, đồng thời hoạch định Chiến lược phát triển Ngành ngân hàng giai đoạn từ nay đến năm 2020, để định hướng cho hoạt động của các NHTM và quản lý của NHNN.
2.3.2.4- Về vị thế, cấu trúc tổ chức, quản lý giám sát của Ngân hàng Nhà nước
* Về vị thế của Ngân hàng Nhà nước