Đánh Giá Tỷ Lệ Điện Chuẩn Của Một Ngân Hàng Thương Mại


toán

Bả

Tỷ lệ doanh thu và lợi nhuận thanh toán quốc tế trên tổng số cán bộ thanh 1

Tỷ lệ doanh thu và lợi nhuận thanh toán quốc tế trên tổng số cán bộ thanh quốc tế.

ng 2.16. Tỷ lệ doanh thu và lợi nhuận thanh toán quốc tế trên tổng số cán bộ thanh toán quốc tế tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội

Đơn vị tính: %



Chỉ tiêu


Năm 2013


Năm 2014


Năm 2015


Chênh lệch

2013-2014

2014-2015

Tổng số cán bộ TTQT (Người)

58

60

65

2

5

Tỷ lệ lợi nhuận TTQT trên tổng số cán bộ TTQT

862,07

961,67

923,08

99,60

(38,59)

Tỷ lệ doanh thu TTQT trên tổng số cán bộ TTQT

1354,00

1662,42

1847,25

308,42

184,83

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 124 trang tài liệu này.

Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế của Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội tại Hội sở chính - 11

(Nguồn: Phòng Quản lý Nhân sự - Khối Nhân sự)

Tỷ lệ về lợi nhuận TTQT trên tổng số cán bộ TTQT hay tỷ lệ doanh thu TTQT trong tổng số cán bộ TTQT giúp xác định năng suất lao động của một cán bộ TTQT trên hiệu quả mang lại từ hoạt động TTQT, tức là một cán bộ TTQT tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận hay doanh thu của hoạt động TTQT. Số lượng cán bộ hoạt động trong hoạt động TTQT tại Hội sở chính của MB tính đến hết năm 2015 là 65 cán bộ trong khi khối lượng công việc lại rất lớn đạt 69.149 món trong năm 2015 và doanh thu đạt 1.201 tỷ đồng. Mặc dù, số lượng cán bộ hoạt động trong lĩnh vực này còn có hạn chế gây ra quá tải cho cán bộ nhân viên nhưng từ bảng tỉ trọng trên cho thấy đội ngũ lao động trên vẫn hoàn thành tốt trách nhiệm và nghĩa vụ của mình. Có thể nhận thấy, tỷ trọng doanh thu TTQT trên tổng số cán bộ TTQT luôn tăng trưởng qua các năm. Cụ thể: Vào năm 2013, tỷ trọng này đạt 1.345,00% tức là một cán bộ TTQT tạo ra 13,54 tỷ đồng doanh thu và tạo ra 8,62 đồng lợi nhuận. Đối với năm 2014, số lượng cán bộ hoạt động trong lĩnh vực này gần như không đổi từ 58 người lên 60 người khiến khối lượng công việc dù có tăng nhưng được chia đều hơn, do vậy, hiệu quả hoạt động TTQT tốt hơn so với năm 2013. Tỷ trọng doanh thu TTQT trong tổng cán bộ TTQT tại năm 2014 đã tăng 308,42% so với năm 2013, nghĩa là, tại năm 2014 một cán bộ hoạt động TTQT sẽ tạo ra được 16,62 tỷ đồng doanh thu và 9,6 đồng lợi nhuận. Năm 2015, số cán bộ được tăng từ 60 người lên 65 người, sự thay đổi về số lượng cán bộ hoạt động gần như không quá thay đổi trong khi khối lượng làm việc vẫn tiếp tục tăng trưởng khiến gánh nặng công việc càng khốc liệt. Điều này được minh chứng bởi

69

tỷ trọng doanh thu trong tổng cán bộ TTQT tăng 184,83% nhưng tỷ trọng về lợi nhuận TTQT trên tổng cán bộ TTQT lại giảm 38,59%. Từ phân tích trên có thể nhận thấy, các cán bộ hoạt động trong lĩnh vực TTQT luôn luôn tạo được lợi nhuận cho hoạt động này hay nói cách khách hiệu quả hoạt động TTQT luôn được cán bộ lao động đảm bảo trong giai đoạn 2013 – 2015. Nhưng khối lượng công việc quá lớn khiến cán bộ chịu áp lực cao khi làm việc tại môi trường làm việc căng thẳng như hoạt động TTQT có thể dẫn tới rủi ro nếu MB không có những biện pháp cụ thể trong thời gian tới.

Tiêu chí về tỷ lệ điện chuẩn

Tỷ lệ điện chuẩn cho biết chính xác một giao dịch được thực hiện sẽ có xác suất bao nhiêu thành công. Hay nói các khác, tiêu chí này giúp phản ánh một cách khách quan sự phát triển của những dịch vụ hỗ trợ như khoa học, công nghệ, hoạt động cung ứng ngoại tệ từ đó thể hiện được hiệu quả hoạt động TTQT tại MB.

Bảng 2.17. Đánh giá tỷ lệ điện chuẩn của một ngân hàng thương mại

Đơn vị tính: %


Tiêu chí

Xuất sắc

Khá

Trung bình

Dưới Trung bình

Tỷ lệ điện chuẩn

90-100

80-90

60-80

< 60

(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động thanh toán quốc tế - Khối Vận hành)

Từ những năm 2002, MB đã bắt đầu áp dụng hệ thống thanh toán liên ngân hàng toàn cầu SWIFT. Đây là mạng liên lạc điện tử giữa các ngân hàng trên toàn cầu cho phép TTQT được thực hiện giao dịch với bên ngoài thống nhất. Nhưng từ năm 2002 đến năm 2010, tỷ lệ điện chuẩn của MB vẫn chỉ đạt tại mức trung bình bởi các yếu tố từ bên ngoài như thị trường, luật pháp lúc đó còn chưa thống nhất và chồng chéo hay các yếu tố nội tại của MB như quy trình thanh toán còn nhiều bất cập. Nhận thấy điều này, bắt đầu từ 2010, MB đã thực hiện nguyên tắc xử lý tập trung cùng với việc chuyên môn hóa từng phương thức thanh toán thông qua chia tách phòng |TTQT ra thành 3 phòng: Phòng Đối soát và SWIFT, phòng Chuyển tiền quốc tế và Phòng Xuất nhập khẩu. Bởi các thay đổi tích cực đó, tỷ lệ điện chuẩn tại MB đã được cải thiện đáng kể sang mức Xuất sắc và thuộc hàng cao nhất trong cả nước (xấp xỉ 96%). Đây là dấu hiệu tốt cho thất hoạt động TTQT đang dần hiệu quả hơn, tránh được sai sót từ phía ngân hàng. Trong giai đoạn 2013 – 2015, MB chỉ đặt chỉ tiêu tỷ lệ điện chuẩn vào khoảng 89% nhưng với nỗ lực cố gắng hoạt động của mình, MB đã cải thiện tỷ lệ này không chỉ đạt chỉ tiêu đề ra mà còn vượt qua rất nhiều.


70



2.3.


2.3.1

Đánh giá hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế tại Ngân hàng Thương mại 2

Đánh giá hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội

. Kết quả đạt được từ hoạt động thanh toán quốc tế tại Hội sở chính – Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội

Kết quả đạt được của hoạt động TTQT của MB là việc thực hiện được các chỉ tiêu kế hoạch đề ra đầu năm. Qua phần thực trạng cũng như phân tích thông qua các chỉ tiêu, ta thấy hoạt động TTQT của MB đã có những kết quả nhất định.

Doanh số, doanh thu từ phí cũng như lợi nhuận ròng của hoạt động TTQT trong giai đoạn 2013-2015 không ngừng tăng lên qua các năm đóng góp vào nguồn lợi nhuận của toàn MB số lượng không nhỏ. Đồng thời thông qua Tỷ lệ doanh thu TTQT trong tổng doanh thu dịch vụ của toàn ngân hàng cho thấy doanh thu từ các khoản phí, lệ phí đã đóng góp trên 70% tổng doanh thu dịch vụ của toàn MB, từ đó khẳng định hiệu quả hoạt động cũng như vị trí quan trọng của hoạt động này tại MB.

Số lượng khách hàng sử dụng dịch vụ của ngân hàng ngày càng tăng theo các năm chứng tỏ hoạt động TTQT của MB ngày càng thu hút được sự tín nhiệm của khách hàng cũng như thể hiện được hoạt động TTQT tại MB đang có hiệu quả.

MB là ngân hàng duy nhất có lợi thế đối với các doanh nghiệp thuộc lực lượng vũ trang trong tất cả lĩnh vực như may mặc, bất động sản, công nghệ cao … . Do đó, MB luôn luôn có nguồn khách hàng ổn định và có thể tận dụng rất nhiều vị trí tốt cho các chi nhánh nhằm mở rộng hệ thống kinh doanh của mình.

Ngân hàng đã cung cấp và duy trì các phương thức thanh toán phổ biến trên thế giới là nhờ thu, chuyển tiền và đặc biệt là tín dụng chứng từ, tạo cơ hội cho khách hàng lựa chọn phương thức phù hợp nhất với mình.

Hỗ trợ cho sự phát triển của các hoạt động kinh doanh khác của ngân hàng: Trong những năm qua, hoạt động TTQT đã tạo thuận lợi cho các hoạt động khác của MB phát triển như: bảo lãnh, tài trợ xuất nhập khẩu, kinh doanh ngoại tệ, … . Cùng với sự mở rộng hoạt động TTQT, dịch vụ bảo lãnh cũng được mở rộng theo cả quy mô lẫn chất lượng. Ngoài hoạt động bảo lãnh, hoạt động kinh doanh ngoại tệ của MB cũng nhận được sự hỗ trợ không nhỏ từ hoạt động TTQT bởi nó có liên quan đến nhu cầu ngoại tệ của khách hàng khi tham gia hoạt động này. Trong thời gian qua, hoạt động TTQT tại MB mà cụ thể hơn là hoạt động thanh toán xuất khẩu đã góp phần thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động mua ngoại tệ tại ngân hàng. Tỷ trọng doanh thu mua bán ngoại tệ so với doanh thu hoạt động TTQT tại MB luôn đạt mức trên 100%. Còn trong hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu, xuất phát từ việc thực hiện đầy đủ các phương thức hiện nay cùng với nguồn vốn ngoại tệ dồi dào, MB đã triển khai hoạt động tài trợ thương mại vào năm 2015. Mặc dù, đây là một hoạt động mới của MB nhưng hoạt động này

71

cũng góp phần đáp ứng nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp xuất nhập khẩu và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh.

MB đang ngày càng mở rộng mối quan hệ với nhiều ngân hàng đại lý trên thế giới, đặc biệt, là các ngân hàng lớn, có uy tín. Tính đến hết năm 2015, MB đã có mối quan hệ đại lý với khoảng 500 ngân hàng trên thế giới.

2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân của hoạt động thanh toán quốc tế tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội - Hội sở chính

2.3.2.1. Hạn chế của hoạt động thanh toán quốc tế tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội – Hội sở chính

Mất cân đối giữa hoạt động thanh toán xuất khẩu và nhập khẩu. Từ các phân tích ở trên, có thể thấy từ số lượng món thanh toán, doanh số cũng như doanh thu của tất cả các phương thức TTQT đang được sử dụng tại MB thì tỷ trọng của hoạt động thanh toán nhập khẩu luôn chiếm quá nửa trong tổng số lượng, doanh số hay doanh thu. Điều này làm cho ngân hàng hạn chế về nguồn ngoại tệ để thanh toán, từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng.

Chi phí của hoạt động thanh toán quốc tế còn cao dẫn đến lợi nhuận ròng thu về từ hoạt động thanh toán quốc tế luôn tăng trưởng chậm. Đồng thời, chi phí của hoạt động TTQT vẫn luôn tăng qua từng năm.

Mức phí áp dụng cho khách hàng của hoạt động TTQT vẫn ở mức cao so với các ngân hàng đối thủ nhất là những ngân hàng đã có uy tín lâu đời trong lĩnh vực TTQT hiện nay như Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam – Vietcombank hay Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển – BIDV do đó MB vẫn chưa tạo được lợi thế so sánh đối với các đối thủ cạnh tranh.

Đối tượng khách hàng sử dụng lĩnh vực TTQT tại MB vẫn chưa đa dạng, chủ yếu vẫn thuộc các lĩnh vực chủ lực tại MB từ trước đến nay: Lực lượng vũ trang nhân dân, Các doanh nghiệp trực thuộc Bộ Quốc phòng, may mặc hay các lĩnh vực công nghệ cao.

Thị phần TTQT của MB tập trung quá nhiều vào thị trường Trung Quốc, việc tập trung vào một thị trường với tỷ lệ hơn 50% khiến cho MB có thể gặp nhiều rủi ro khi thị trường Trung Quốc có biến động theo chiều hướng tiêu cực.

Quy trình thanh toán chưa hợp lý: Nguyên tắc của hoạt động TTQT tại MB là nguyên tắc tập trung, do đó, chi nhánh có chức năng nhận, kiểm tra và duyệt hồ sơ rồi gửi lệnh kèm hồ sơ lên trên hội sở chính, và lúc này các chuyên viên tại hội sở sẽ mặc định hồ sơ đã được xét duyệt và không kiểm tra lại nữa, hồ sơ chỉ được kiểm tra lại khi đã được đẩy lên cho các Kiểm soát viên. Vì vậy, nếu có sai sót xảy ra hay bất cứ trục

72



trặc

khác

nào chuyên viên MB tại hội sở chính mới gọi lại cho chi nhánh để liên lạc 3

nào, chuyên viên MB tại hội sở chính mới gọi lại cho chi nhánh để liên lạc với h hàng, từ đó khiến thời gian xử lý lâu và chưa nhanh gọn.

Tính đảm bảo an toàn trong hoạt động TTQT mới chỉ được thực hiện thủ công tức là các chuyên viên Hội sở chính và các kiểm soát viên sẽ có nhiệm vụ đảm bảo sự tuân thủ cũng như phát hiện rủi ro có thể xảy ra. Hiện nay, hệ thống đảm bảo an toàn trong hoạt động TTQT của MB mới chỉ được tự động nhận biết các nước đang bị cấm vận chứ chưa thể phát hiện được những hành vi tinh vi của những đối tượng có mục đích xấu. Do đó, khi có những thông tin hay biến động mới về tình hình kinh tế, chính trị của các quốc gia trên thế giới, nếu không kịp cập nhật hoặc sai sót do cá nhân chuyên viên sẽ dẫn đến rủi ro không tốt cho toàn hệ thống TTQT của MB.

Hoạt động TTQT vẫn chưa tác động được sâu đến với các hoạt động liên quan. Cụ thể, hoạt động TTQT mới chỉ tác động đòn bảy đến hai lĩnh vực chủ yếu là bảo lãnh L/C và hoạt động kinh doanh ngoại tệ của MB. Còn tác động đòn bảy đến hoạt động tín dụng hoặc nâng cao quy mô nguồn vốn ngoại tệ tại MB còn rất hạn chế, thậm chí còn không tác động.

Thời gian xử lý giao dịch chưa nhanh: Mặc dù trong giai đoạn 2013-2015, MB đã cố gắng cắt giảm thời gian xử lý giao dịch xuống nhưng so sánh với các ngân hàng cùng hoạt động trong lĩnh vực TTQT và số lượng giao dịch ngày một tăng nhanh khiến thời gian xử lý giao dịch vẫn chưa phù hợp với Mức độ xử lý tự động các giao dịch chưa cao, quy trình thanh toán rườm rà, còn chưa linh hoạt ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động TTQT của ngân hàng.

Quy mô nguồn vốn đặc biệt nguồn vốn ngoại tệ của MB còn hạn chế chưa đáp ứng được hết nhu cầu sử dụng của khách hàng, trong khi đó nguồn vốn huy động ngoại tệ không có do quy định của NHNN mà chỉ thông qua các tài khoản ngoại tệ dùng trong thanh toán ngay hoặc ngắn hạn.

2.3.2.2. Nguyên nhân dẫn đến các hạn chế của hoạt động thanh toán quốc tế tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội – Hội sở chính

a. Nguyên nhân chủ quan

Nguyên nhân từ đội ngũ lao động

Đội ngũ chuyên viên tại các chi nhánh còn thiếu kinh nghiệm: Một trong những hạn chế về mảng nhân sự tại MB là đội ngũ chuyên viên hoạt động trong mảng TTQT còn thiếu kinh nghiệm và chưa linh hoạt. Có thể thấy, khách hàng khi đến các chi nhánh để làm thủ tục sẽ tiếp xúc trực tiếp với các chuyên viên Quan hệ khách hàng hoặc giao dịch viên để làm hồ sơ, các chuyên viên này không phải chuyên viên riêng cho một mảng TTQT nên đôi khi không thể kiểm soát được hết hồ sơ mà khách hàng

73

gửi đến khiến cho mới đây vào năm 2016, MB nhận ra được yếu điểm này của mình đã tuyển thêm vị trí mới là Chuyên viên Tài trợ thương mại nhằm chuyên môn hóa hoạt động TTQT tại chi nhánh. Vì thế có thể thấy các chuyên viên ở hoạt động này còn khá trẻ và thiếu kinh nghiệm xử lý.

Đội ngũ chuyên viên tại hội sở chính phải làm việc quá sức: Vì nguyên tắc hoạt động tập trung của hoạt động TTQT cùng với đội ngũ chuyên viên cấp chi nhánh còn yếu kém và tính chất của hoạt động này là trong lĩnh vực quốc tế, nên các chuyên viên có khi phải làm việc đến 22:00 vào những ngày trọng điểm là không hiếm. Với lịch làm việc đến tối, xử lý hàng trăm giao dịch mỗi ngày cùng với nhận điện thoại hay email thường xuyên để giải đáp thắc mắc của những chuyên viên cấp chi nhánh khiến cho các chuyên viên tại hội sở gặp căng thẳng thường xuyên. Vì vậy, các điện giao dịch được gửi muộn dễ bị sai sót và phải sửa lại khiến năng suất lao động sẽ không cao và hiệu quả.

Đội ngũ lao động hoạt động trong hoạt động TTQT tại MB chủ yếu là nữ: Có thể thấy đây không phải là điểm yếu của riêng MB mà là một thực trạng chung của hầu hết các NHTM tại Việt Nam hiện nay, đội ngũ lao động nữ hoạt động trong công việc giấy tờ sẽ có ưu điểm là tính chính xác, cẩn thận cũng như tỉ mỉ phù hợp với đòi hỏi tính chất của công việc. Nhưng mặc khác, nó lại dẫn đến một hệ quả, phái nữ sẽ có gánh nặng chăm sóc gia đình hoặc có thời gian nghỉ do sinh đẻ, vì thế nguồn lao động không đảm bảo về mặt số lượng cũng như chất lượng.

Nguyên nhân từ sản phẩm dịch vụ

MB chưa có sự đa dạng trong các phương thức thanh toán: Như đã liệt kê ở trên, các phương thức thanh toán mà MB cung cấp ra ngoài thị trường chủ yếu vẫn là những phương thức cơ bản mà bất cứ ngân hàng nào cũng đang cung cấp. So với VCB hoặc Techcombank, các sản phẩm dịch vụ mà MB cung cấp còn quá hạn chế so với tình hình kinh tế biến đổi không ngừng như hiện nay khiến cho MB vẫn chưa tạo được sự bứt phá cũng như chưa thu hút được nhiều đối tượng khách hàng mới sử dụng sản phẩm dịch vụ của mình.

Nguyên nhân từ cơ sở hạ tầng, trang thiết bị và công nghệ

Trang thiết bị công nghệ thông tin còn yếu: Đầu tiên phải kể đến hệ thống máy tính và máy in phục vụ riêng cho hoạt động TTQT tại MB, có một số máy luôn luôn bị chậm và không thực hiện được giao dịch kịp thời, có trường hợp, phòng làm việc có 4 máy in nhưng chỉ có 1 máy hoạt động được. Nguyên nhân của vấn đề này là các máy luôn phải hoạt động quá công suất và không có máy dự trữ để thay đổi mỗi khi có hỏng hóc xảy ra, đồng thời, ban lãnh đạo MB cũng chưa quan tâm đến việc bảo dưỡng bảo trì máy móc cho nhân viên định kỳ. Điều thứ hai phải kể đến là hệ thống mạng nội

74



bộ củ

thời phải

a MB luôn xảy lỗi vào giờ cao điểm Có thể thấy việc mạng nội bộ bị lỗi 4

a MB luôn xảy lỗi vào giờ cao điểm. Có thể thấy, việc mạng nội bộ bị lỗi khiến gian giao dịch bị kéo dài hơn và làm đình trệ một số giao dịch gấp. Điều thứ ba kể tới là mức độ tự động hóa của hoạt động TTQT còn kém và gần như không có,

mọi hoạt động như đánh điện, kiểm tra hồ sơ đều được thực hiện thủ công.

Chỉ có 4 cổng SWIFT dành cho chuyên viên trong cùng một thời điểm: việc hạn chế cổng SWIFT tại cùng một thời điểm khiến cho các chuyên viên phải chờ đợi nhau để vào hệ thống SWIFT mỗi khi cần thiết, khiến các giao dịch không được thực hiện nhanh nhất.

Thông tin chi tiết về nghiệp vụ thanh toán quốc tế còn chưa công khai: So với các ngân hàng cùng cung cấp dịch vụ TTQT, khách hàng khi sử dụng dịch vụ TTQT tại MB luôn gặp khó khăn để tiếp xúc với các thông tin nhất, bởi tất cả những gì Ngân hàng cung cấp trên trang web riêng của mình đều ở mức sơ khai, miêu tả về gói dịch vụ chứ chưa liệt kê chi tiết về phí giao dịch hoặc giấy tờ cần thiết khi thực hiện TTQT. Mọi hoạt động TTQT hiện nay tại MB đều được thực hiện tại phòng giao dịch hoặc chi nhánh nên việc thiếu thông tin sẽ khiến khách hàng mất thời gian trong công tác lập lệnh và thời gian di chuyển.

b. Nguyên nhân khách quan

Môi trường kinh tế

Cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội toàn cầu trong những năm 2008 - 2009 đến năm 2013, 2014 chưa thuyên giảm, có nơi giảm, có nơi tăng, có nơi rơi vào suy thoái, giảm phát. Kinh tế thế giới trong giai đoạn 2013 - 2015 vẫn còn nhiều bất ổn và biến động phức tạp. Tăng trưởng kinh tế của các nước thuộc khu vực đồng tiền chung châu Âu, đặc biệt là một số nước thành viên đang chịu ảnh hưởng của nợ công vẫn còn rất mờ nhạt. Khủng hoảng tài chính và khủng hoảng nợ công ở châu Âu chưa hoàn toàn chấm dứt. Những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao trước đây như Trung Quốc có tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng trung bình là 10%/năm thì trong năm 2014 chỉ đạt trên 7%/năm. Kinh tế không phát triển, kéo đời sống xã hội tụt xuống, khiến nhiều nơi phải bóp chặt chi tiêu, tăng các khoản thuế, nạn thất nghiệp có nơi lên tới 10%, gây ra nhiều cuộc biểu tình phản đối lôi kéo hàng ngàn người tham gia, gây mất ổn định chính trị. Từ những diễn biến kinh tế không khả quan khiến cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực XNK tại Việt Nam không tự tin tiến vào những thị trường mới như Châu Âu khiến cho thị trường TTQT tại MB mới chỉ dừng lại tại thị trường Châu Á và chủ yếu là Trung Quốc.

Môi trường chính trị

Trong giai đoạn 2013 – 2015 có thể kể ra rất nhiều cuộc khủng hoảng chính trị như: Cuộc khủng khoảng ở Ukraine do Mỹ và phương Tây kích hoạt từ tháng 11/2013;

75

khi Mỹ gặp bất ổn về uy tín của Tổng thống giảm sút, quốc hội Mỹ lục đục; Pháp cũng có nhiều thất bại về đường lối nội bộ và chính sách với các nước Châu Phi, Anh đứng trước cuộc trưng cầu dân ý tách ra khỏi Irland ra khỏi Vương quốc Anh; Khủng hoảng người di cư và hàng loạt vụ khủng bố của Nhà nước Hồi giáo tự xưng IS; Biển Đông có những diễn biến xấu khiến quan hệ Việt Nam – Trung Quốc – Philippines căng thẳng. Tình hình chính trị xấu này khiến cho việc xét duyệt hồ sơ cho hoạt động TTQT cần được đẩy mạnh chặt chẽ hơn gây mất thời gian cho các món đi đến những khu vực chính trị bất ổn này. Đặc biệt, hoạt động TTQT tại MB là một trong những ngân hàng có quan hệ kinh tế với Trung Quốc rất cao, do chính sự tại Biển Đông khiến hàng loạt giao dịch đi và đến Trung Quốc đều bị hoãn lại hoặc không thể phê duyệt.

Môi trường pháp luật

Các văn bản liên quan đến hoạt động XNK của chính phủ và các ngành liên quan chưa đồng bộ. Hoạt động XNK của các doanh nghiệp liên quan trực tiếp đến hoạt động TTQT tại MB, khi các hoạt động này càng phát triển thì kim ngạch TTQT qua ngân hàng cũng phát triển theo. Trong giai đoạn 2013 – 2015, Chính phủ Việt Nam cũng đã đưa ra nhiều chính sách, điều luật nhằm khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu nhưng những chính sách, điều luật ày còn có một số hạn chế nảy sinh ra các khó khăn cho chính doanh nghiệp khi áp dụng. Ngoài ra, các văn bản pháp luật này còn chưa thống nhất với các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã và sẽ ký kết trong thời gian tới. Do vậy, tác động của môi trường pháp luật đến các doanh nghiệp XNK chưa đủ mạnh đã tác động xấu đến hoạt động TTQT của MB.

Nguyên nhân từ phía khách hàng

MB thực hiện hoạt động TTQT nhằm phục vụ cho nhu cầu TTQT của khách hàng (bao gồm: các cá nhân, các doanh nghiệp hoặc tổ chức trong nước). Trong đó, đối tượng khách hàng sử dụng chủ yếu của hoạt động này là các doanh nghiệp XNK. Do đó, năng lực kinh doanh của các doanh nghiệp này có ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động TTQT tại MB. Một số nguyên nhân phát sinh từ phía khách hàng góp phần tạo ra những tồn tại trong TTQT và góp phần ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động TTQT của MB có thể kể ra như sau:

Một là, khách hàng vẫn chưa nắm vững luật kinh tế, tạo sơ hở hề mặt pháp lý khi ký kết hợp đồng và khi xảy ra tranh chấp không có cơ sở khiếu nại.

Hai là, khách hàng chưa thông thạo về kỹ thuật buôn bán ngoại thương, không nắm vững các thông lệ quốc tế, các phương thức thanh toán quốc tế từ đó dễ dàng chấp nhận các điều khoản trong hợp đồng gây bất lợi cho mình hoặc việc lập chứng từ L/C xảy ra sai sót không đáng có, … .


76


Xem tất cả 124 trang.

Ngày đăng: 05/09/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí