Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế của Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội tại Hội sở chính - 14


thể v

nhân

ận hành công việc nhanh chóng nhờ tính thích nghi nhanh và học hỏi tốt từ 1

ận hành công việc nhanh chóng nhờ tính thích nghi nhanh và học hỏi tốt từ nguồn lực này.

Thêm vào đó, MB cũng nên tuyển dụng thêm nhân viên làm việc trong hoạt động TTQT nhất là những nhân viên nam để tránh trường hợp các nhân viên nữ đều đồng loạt nghỉ sinh gây ra tổn thất về nhân lực cho ngân hàng cũng như giảm bớt gánh nặng công việc quá tải hiện nay tại bộ phận TTQT.

Nâng cao trình độ, chuyên môn cho cán bộ TTQT tại chi nhánh và duy trì đội ngũ lao động tại Hội sở chính.

Đối với đội ngũ cán bộ TTQT tại chi nhánh, MB phải thường xuyên kiểm tra, đánh giá trình độ cán bộ để thực hiện đào tạo và đào tạo lại nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực cho cán bộ làm công tác TTQT. Tổ chức các lớp đào tạo về nghiệp vụ tại Hội sở chính giúp cán bộ chi nhánh có thể nắm bắt và tiếp thu nhanh các vấn đề thực tiễn đồng thời cũng giúp cho cán bộ TTQT giữa chi nhánh và Hội sở chính có cơ hội làm quen lẫn nhau, từ đó tạo được sự liên kết giữa chi nhánh và Hội sở chính.

MB cần tiếp tục phát huy kết quả đạt được của những hội thảo làm việc, trau dồi kiến thức thông qua các giải pháp sau:

Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, hội nghị, hội thảo về nghịệp vụ nhằm nâng cao kiến thức cho nhân viên. Vì hoạt động thanh toán quốc tế không diễn ra độc lập mà có mối liên hệ với các hoạt động khác của ngân hàng như tín dụng, kinh doanh ngoại hối,… liên quan đến những kiến thức về thương mại quốc tế, luật thương mại quốc tế,… nên các nhân viên thanh toán quốc tế cần được trang bị đầy đủ không những kiến thức chuyên môn về thanh toán quốc tế mà cần được trang bị nhiều kiến thức khác như vận tải, bảo hiểm,...trong ngoại thương.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 124 trang tài liệu này.

Xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho việc học tập, tiếp thu thêm kiến thúc của nhân viên. Cơ sở vật chất đạt yêu cầu tốt nhất để tạo điều kiện thuận lợi cho học viên học tập và nghiên cứu như: thư viện, phòng thảo luận, phòng hội thảo... vì lợi ích của những phòng này mang lại rất lớn, giúp cho nhân viên học tập, nghiên cứu những quy trình hay những khúc mắc chưa rõ trong nghiệp vụ của mình như về UCP phiên bản đã được sửa đổi, những quy trình thanh toán còn khúc mắc, những lý thuyết về luật thương mại mới ra đời... mà nhân viên chưa kịp tiếp thu.

MB có thể gửi cán bộ nhân viên tham gia các lớp tập huấn của các ngân hàng khác tổ chức nhằm cập nhật những thông tin của các ngân hàng khác nhau, giúp cho quá trình xử lý các tình huống, giải quyết các vấn đề phát sinh được nhanh chóng và đúng đắn. Hơn nữa, MB nên khuyến khích nhân viên ngân hàng nói chung cũng như nhân viên Phòng Thanh toán quốc tế nói riêng trau dồi sinh ngữ, giúp cho việc tiếp xúc với khách hàng nước ngoài cũng như xử lý công việc hiệu quả hơn thông qua chương

Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế của Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội tại Hội sở chính - 14

93

trình English Time (Từ 14 giờ đến 17 giờ hàng ngày, các cán bộ TTQT tại Hội sở chính thay vì sử dụng tiếng việt trong giao tiếp sẽ sử dụng tiếng anh)

Thường xuyên cập nhật thông tin trong và ngoài nước, qua đó giúp cho cán bộ TTQT am hiểu và chủ động trong hoạt động của mình. Ngoài ra, MB cũng nên chú trọng đầu tư tài liệu, sách báo phục vụ cho việc tìm hiểu thông tin, trau dồi nghiệp vụ của nhân viên.

Phát huy tối đa năng lực làm việc của cán bộ nhân viên TTQT

Không chỉ trau dồi kinh nghiệm cũng như bồi dưỡng nghiệp vụ, MB cũng cần có chế độ khen thưởng kịp thời đối với những cán bộ giỏi về chuyên môn, hoàn thành suất sắc công được giao, có nhiều sáng tạo trong công việc. Và có chế độ kỷ luật với những cán bộ không hoàn thành công việc được giao, ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng.

Hiện nay, MB đã áp dụng đo lường năng suất lao động của các nhân viên thông qua hệ thống KPIs để từ đó xác định những chuyên viên xuất sắc và những chuyên viên yếu kém để từ đó đưa ra những hình thức khen thưởng và xử phạt một cách hợp lý. Hệ thống KPIs được hiểu là hệ thống đo lường hiệu suất của toàn doanh nghiệp trong đó có cả bộ máy nhân sự. Hệ thống này nhằm đảm bảo người lao động thực hiện đúng trách nhiệm theo từng vị trí chức danh cụ thể và đây là hệ thống mang tính định lượng cụ thể do đó góp phần làm cho việc đánh giá trở nên minh bạch, rõ ràng. Nhưng hệ thống KPIs này mới chỉ được áp dụng cho hệ thống chi nhánh và các bộ phận kinh doanh của MB còn Trung tâm Dịch vụ thanh toán tại khối Vận hàng thì chưa được áp dụng. Vì thế, các nhân viên tại Hội sở đều có được mức lương như nhau nên không tạo được sự công bằng trong làm việc và làm giảm tính thi đua nhằm phát huy toàn bộ năng lực của họ. Việc xây dựng hệ thống KPIs cho bộ phận TTQT là một việc khá khó do đây là bộ phận thuộc hệ thống Back Office và không chịu doanh số bán hàng. Nên để xây dựng được hệ thống này cần MB tạo được dự án riêng và có những chiến lược thực hành riêng cho mình.

Bước 1: Ban dự án cần tham vấn trực tiếp xây dựng hệ thống KPI cho các vị trí chức danh trong bộ phận/phòng/ban TTQT dựa trên sự hướng dẫn, trợ giúp về mặt phương pháp của những người có chuyên môn như: Trưởng bộ phận/phòng/ban – người hiểu rõ và tổng quan nhất về các nhiệm vụ, yêu cầu của các vị trí chức danh trong bộ phận.

Bước 2: Ban dự án xác định các KRAs (Keys Result Area) của bộ phận (các chức năng/nhiệm vụ của Phòng): Mỗi bộ phận trong tổ chức có những chức năng/trách nhiệm cụ thể đặc trưng cho bộ phận/phòng/ban và hệ thống các KPIs được xây dựng phải thể hiện, gắn liền với đặc trưng, chức năng, nhiệm vụ của bộ phận. Như Phòng

94



Chu

Phòn

yển tiền quốc tế chỉ có chức năng tiếp nhận và xử lý được các lệnh TTR 2

yển tiền quốc tế chỉ có chức năng tiếp nhận và xử lý được các lệnh TTR, còn g Xuất Nhập khẩu chỉ có thể thấy và xử lý về nghiệp vụ L/C hoặc Nhờ thu.

Bước 3: Xác định vị trí chức danh và các trách nhiệm chính của vị trí chức danh: Với mỗi vị trí chức danh thì người xây dựng KPIs cần chỉ ra một số trách nhiệm chính mà người đảm nhận vị trí công việc này phải thực hiện (mô tả công việc).

Bước 4: Xác định các chỉ số đo lường hiệu suất (chỉ số đánh giá): KPIs của bộ phận rồi xác định hệ thống chỉ số đo lường hiệu suất cho từng vị trí chức danh.

Bước 5: Xác định mức độ điểm số cho các kết quả đạt được Bước 6: Liên hệ giữa kết quả đánh giá KPIs và lương, thưởng

Ngoài ra, MB cũng nên tổ chức những chuyến thăm quan, dã ngoại giúp nhân viên được thư giãn và giảm bớt căng thẳng của những giờ làm việc vất vả.

Quan tâm đến chế độ lương, thưởng hợp lý: Để nhân viên làm việc hết mình, ngoài nỗ lực của chính bản thân họ thì MB cần có chính sách lương thưởng hợp lý. Mức lương phải phù hợp với năng lực và sự cống hiến của nhân viên trong công việc. Đối với những nhân viên hoàn thành xuất sắc công việc và có những đóng góp nhất định cho sự phát triển của cơ quan, MB nên có chính sách khen thưởng chính đáng.

Tạo nhiều phong trào giao lưu văn nghệ và trao đổi thông tin giữa các nhân viên của MB. Không chỉ giao lưu học hỏi nội bộ mà cần chủ động kết nối với các ngân hàng trong địa bàn tỉnh tạo những buổi họp, thảo luận cho tất cả các nhân viên tham gia. Điều này giúp nhân viên học hỏi được nhiều kinh nghiệm từ các nhân viên ngân hàng bạn cũng như kinh nghiệm trong chính sách đào tạo và bí quyết giữ chân nhân viên của các ngân hàng bạn.

Cần quan tâm bồi dưỡng đạo đức nghề nghiệp cho nhân viên. Đây là yếu tố quan trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực theo ý nghĩa hoàn hảo, nhất là với nghiệp vụ thanh toán quốc tế, rủi ro có thể xảy ra bất cứ lúc nào nếu nhân viên có đạo đức nghề nghiệp kém. Vì vậy MB cần thường xuyên theo dõi đánh giá về mặt đạo đức và có biện pháp ngăn chặn xử lý kịp thời khi có dấu hiệu vi phạm.

3.2.6. Tạo cho khách hàng thấy giá trị mà sản phẩm dịch vụ thanh toán quốc tế tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội.

Hoạt động TTQT là hoạt động không còn xa lạ với NHTM, có thể thấy, tất cả các ngân NHTM đều đang cung cấp ra ngoài thị trường một dịch vụ gần như giống nhau. Với ngân sách khiêm tốn mà MB có, MB khó lòng cạnh tranh với những ngân hàng tên tuổi, vậy nên để có thể cạnh tranh với các ngân hàng đã có uy tín về hoạt động này

95

MB nên tạo cho khách hàng thấy giá trị mà sản phẩm dịch vụ TTQT mang lại cho khách hàng nhằm tạo cảm giác thoải mái khi phải chi trả khoản tiền tương đương nhưng khách hàng lại được sử dụng dịch vụ tốt hơn. Đây là một yếu tố quyết định giúp MB thu hút khách hàng mới lựa chọn sản phẩm của mình, giữ chân những khách hàng cũ và tối đa hóa lợi nhuận cuối cùng mà hoạt động TTQT nhận được với một khoản chi phí nho nhỏ so với chi phí của đối thủ đồng thời không cần cắt giảm mức phí đang áp dụng cho khách hàng.

MB có thể học tập Công ty Huthwaite (Công ty dịch vụ tư vấn bán hàng ở Mỹ) để tạo được giá trị của sản phẩm thông qua Chiến lược 3C (Candor: Sự thật thà, Competence: Năng lực và Concern: Sự Quan tâm)

Candor - Sự thật thà

Khách hàng trong hoạt động TTQT chủ yếu là những doanh nghiệp XNK hay những cá nhân có nhu cầu khẩn cấp cần thanh toán ra nước ngoài, do đó, điều họ cần đầu tiên khi đi đến một ngân hàng là sự trung thực và đơn giản trong tư vấn của chuyên viên. Họ muốn người chuyên viên thẳng thắn về mọi vấn đề, xác định rõ điều gì là có thể và không thể. Đặc biệt, họ ấn tượng trước những chuyên viên ngân hàng sẵn sàng trả lời rằng: "Tôi không có câu trả lời chính xác cho ông/ bà ngay bây giờ nhưng tôi sẽ có sau một tiếng (hay một ngày) sau”. Và tất nhiên sau đó, khách hàng nhận được lời giải thích đầy đủ từ chuyên viên. Sự thật thà này không những giúp khách hàng tiết kiệm được thời gian chờ đợi câu trả lời cuối cùng từ MB mà còn giúp MB thể hiện được phong cách làm việc chuyên nghiệp. Muốn có được điều này, MB cần có những khóa đào tạo kỹ năng cho các chuyên viên tư vấn, áp dụng giải pháp về công nghệ cũng giúp cho thời gian xử lý hồ sơ giảm đi.

Competence - Khả năng

Khách hàng luôn muốn được phục vụ bởi một nhân viên có năng lực. Họ cần cảm thấy gặp ít rủi ro nhất khi làm việc với ngân hàng vì bản thân TTQT đã là một hoạt động chứa đựng rất nhiều rủi ro cho người sử dụng. Do đó, MB cần chứng tỏ khả năng của mình bằng kĩ năng giao tiếp, thuyết phục cũng như sự hiểu biết sâu rộng về sản phẩm. Và muốn có được điều này, MB cần tập trung vào giải pháp nâng cao trình độ nguồn nhân lực của mình.

Concern - Sự quan tâm

Khách hàng luôn muốn nhận được ngân hàng chú ý và quan tâm. Do vậy , MB cần quan tâm tới tâm tư, nguyện vọng, ngay cả về những vấn đề không liên quan tới công việc của mình. Đây thường là yếu tố bị chuyên viên bỏ qua khi thuyết phục khách hàng dù nó là một nhân tố rất quan trọng. Có thể nói sự quan tâm là yếu tố quyết định. Do đó, chuyên viên tại MB cần đặt mình trong hoàn cảnh của khách hàng

96



và c

hàng phụ

hú ý tới cảm nhận của họ nhiều hơn bằng cách ghi nhớ các đặc điểm của 3

hú ý tới cảm nhận của họ nhiều hơn bằng cách ghi nhớ các đặc điểm của khách

, thường xuyên gửi tới khách hàng những phiếu khảo sát (đính kèm mẫu tại phần lục của bài khóa luận này) kèm theo những quà tặng nhỏ có dấu ấn thương hiệu

MB (như: áo mưa, móc chìa khóa, sổ tay, ...) nhằm giúp các đối tượng khách hàng dù là khách hàng vừa mới sử dụng dịch vụ hay những khách hàng thân thiết đều cảm thấy thỏa mãn khi giao dịch tại MB.

3.3. Khuyến nghị

3.3.1. Khuyến nghị với Ngân hàng nhà nước

Hệ thống pháp luật với hoạt động thanh toán quốc tế

Hiện nay, hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động TTQT gồm có: các nguồn luật và công ước quốc tế, các nguồn luật quốc gia, thông lệ và tập quán quốc tế. Mặc dù vậy, các thông lệ và tập quán quốc tế có hướng dẫn và chỉ dẫn rõ ràng cho từng nghiệp vụ thì lại không mang tính chất bắt buộc như văn bản pháp lý quốc tế hay nguồn luật quốc gia, do vậy khi xảy ra tranh chấp, nếu không có nguồn luật rõ ràng sẽ gây khó khăn cho các doanh nghiệp cũng như ngân hàng trong và ngoài nước. Đối với nguồn luật quốc gia điều chỉnh cho hoạt động TTQT được NHNN ban hành chủ yếu mới điều chỉnh về hoạt động ngoại hối hoặc các văn bản giúp tránh hành vi rửa tiền, sai sót từ những phương tiện thanh toán chứ chưa có một nguồn luật riêng biệt cho những phương thức TTQT cho ngân hàng cũng như doanh nghiệp áp dụng. Việc ban hành một nguồn luật chặt chẽ, đáp ứng được tình hình thay đổi không ngừng của thế giới và ngăn chặn sớm được những hành vi sai lệch ngày càng tinh vi của các tổ chức tài chính quốc tế sẽ giúp cho NHNN rõ ràng minh bạch tính thống nhất chung của pháp luật Việt Nam, hạn chế được những sai sót có thể xảy ra. Ngoài ra, giúp cho các NHTM có thể xây dựng cơ chế quản lý cũng như vận hành hoạt động TTQT tốt nhất và hạn chế các tranh chấp có thể xảy ra.

Ổn định chính sách liên quan đến tỷ giá hối đoái và lãi suất cho vay ngoại tệ

Trong giai đoạn 2013-2015, sự biến động lãi suất ngoại tệ đặc biệt là lãi suất của đồng USD của NHNN đã gây những khó khắn trong việc mua bán ngoại tệ để phục vụ hoạt động XNK của doanh nghiệp, tính chung trong năm 2015, NHNN thực hiện điều chỉnh tăng tỉ giá 3% và nới biên độ thêm 2% từ mức +/-1% lên +/-3%, các doanh nghiệp cũng như NHTM phải mua ngoại tệ với giá cao. Do vậy, trong giai đoạn tới, khuyến nghị NHNN có chủ trương điều hành thị trường ngoại hối một cách linh hoạt và đảm bảo sự ổn định giúp cho doanh nghiệp vững tâm hoạt động, tránh bị ảnh hưởng bởi tỷ giá dao động bất ổn như hiện nay bằng cách chuyển sang cơ chế neo giữ một giỏ tiền tệ là một lựa chọn hợp lý, vừa giữ được ổn định tỷ giá ở mức độ nhất định, vừa đảm bảo tính linh hoạt của chính sách.

97

Ngoài ra, để tiếp tục thực hiện các giải pháp đồng bộ nhằm thực hiện chủ trương chống đô la hóa của Chính phủ, chuyển từ quan hệ huy động - cho vay bằng ngoại tệ sang quan hệ mua - bán bằng ngoại tệ, ngày 17/12/2015, NHNN đã ban hành Quyết định số 2589/QĐ-NHNN về mức lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng đô la Mỹ của tổ chức, cá nhân tại TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo quy định của Thông tư số 06/2014/TT-NHNN ngày 17/3/2014, có hiệu lực từ 18/12/2015. Theo đó, NHNN đã điều chỉnh giảm lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng USD của cá nhân từ 0,25%/năm xuống 0%/năm. Ngay khi có hiệu lực, từ sáng ngày 18/12/2015, các TCTD đã áp dụng mức lãi suất huy động USD theo đúng quy định trần lãi suất USD của NHNN. Hiện nay lãi suất huy động USD của TCTD phổ biến ở mức 0%/năm đối với tiền gửi của cá nhân và tổ chức.

Lãi suất cho vay USD tương đối ổn định. Hiện lãi suất cho vay USD phổ biến ở mức 3-6,5%/năm; trong đó lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến ở mức 3-5,3%/năm, lãi suất cho vay trung, dài hạn ở mức 5,5-6,5%/năm.

Có thể thấy, trong giai đoạn 2013-2015, các doanh nghiệp có xu hướng không còn gửi ngoại tệ tại ngân hàng mà thay vào đó là mua bán ngoại tệ trực tiếp hoặc thông qua các công cụ phái sinh trong khi lãi suất cho vay lại khá cao, khiến nguồn ngoại tệ thu về không đủ chi trả cho hoạt động TTQT. Do vậy, NHNN cần đưa lãi suất ngoại tệ về mặt hợp lý phù hợp với ba mục tiêu:

- Kiềm chế lạm phát

- Giảm thâm hụt cán cân thương mại

- Tăng sự hấp dẫn của VNĐ

Hoàn thiện cơ chế đưa đồng tiền Việt Nam (VNĐ) tham gia vào thanh toán xuất

khẩu

Theo định hướng của chính phủ và NHNN, đến năm 2013 cơ chế đưa đồng tiền

Việt Nam vào hoạt động thanh toán xuất khẩu sẽ được xây dựng, đây là mục tiêu được đặt ra trong đề án nâng cao tính chuyển đổi của đồng VNĐ do tính chuyển đổi của đồng VNĐ trên thế giới còn rất hạn chế trong khi hiệp định TPP ngày một đến gần, sự phụ thuộc vào đồng USD của VNĐ quá cao. Do vậy, trong giai đoạn sắp tới phía NHNN nên bám sát lộ trình hoàn thiện cơ chế này nếu như đề án này thành công thì các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực XNK Việt Nam có rất nhiều thuận lợi trong việc phát triển hoạt động kinh doanh của mình đồng thời không bị ảnh hưởng bởi các điều kiện thanh toán liên quan đến nguồn ngoại tệ khác.


98



toán

Ngân hàng Nhà nước cần hỗ trợ các ngân hàng thương mại trong công tác thanh 4

Ngân hàng Nhà nước cần hỗ trợ các ngân hàng thương mại trong công tác thanh quốc tế

NHNN có thể nới lỏng các quy định về ký quỹ, vay để ký quỹ mở L/C hoặc có thể cấp tín dụng cho các NHTM trong trường hợp tài trợ cho những hợp đồng xuất nhập khẩu lớn, tác động mạnh đến sự phát triển kinh tế.

3.3.2. Khuyến nghị với Chính phủ

Chính sách thuế ưu đãi đối với hàng xuất khẩu .

Thuế là một công cụ Nhà nước dùng để đánh vào các loại hàng hoá và dịch vụ. Tác động của thuế tới hoạt động xuất khẩu là tác động xuôi chiều, khi thuế thấp kích thích xuất khẩu (thuế ưu đãi). Phần lớn các nước hiện nay có xu hướng khuyến khích xuất khẩu nên việc đánh thuế vào hàng hoá xuất khẩu hay đầu vào dùng để xuất khẩu đều được hưởng những ưu đãi nhất định. Đặc biệt là ở Việt Nam khi mà tỷ trọng thanh toán giữa hàng hóa nhập khẩu luôn luôn nhiều hơn so với hàng hóa xuất khẩu đồng thời nguồn ngoại tệ để nhập công nghệ mới, cải tiến kỹ thuật cũng hạn chế thì những chính sách thuế đối với hàng hoá xuất khẩu được các nhà lập chính sách cân nhắc sao cho có lợi nhất cho doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, tham gia hoạt động xuất khẩu. Hiện nay do chính sách ưu tiên xuất khẩu nên hàng hoá đặc biệt khi xuất khẩu không phải là đối tượng chịu thuế TTĐB. Như vậy ngay trong việc thực hiện chính sách và ban hành chính sách ưu tiên xuất khẩu cũng có những vấn đề đặt ra: Hàng hoá đặc biệt khi xuất khẩu, thoát ly khỏi ràng buộc của thuế TTĐB do người tiêu dùng ở ngoài lãnh thổ Việt Nam Nhà nước không điều chỉnh tiêu dùng của đối tượng này. Tức là, Chính phủ mới chỉ tác động giúp các doanh nghiệp xuất khẩu không phải chịu thuế giá trị gia tăng khi xuất hàng ra nước ngoài nhưng khi doanh nghiệp muốn đưa hàng hóa vào thị trường nước ngoài thì Chính phủ vẫn chưa bảo vệ được doanh nghiệp xuất khẩu khiến giá hàng hóa của Việt Nam khi xuất khẩu vẫn ở mức giá cao so với mặt bằng chung.

Chính phủ cần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế

Cán cân thanh toán, hay cán cân thanh toán quốc tế, ghi chép những giao dịch kinh tế của một quốc gia với phần còn lại của thế giới trong một thời kỳ nhất định. Những giao dịch này có thể được tiến hành bởi các cá nhân, các doanh nghiệp cư trú trong nước hay chính phủ của quốc gia đó. Những giao dịch đòi hỏi sự thanh toán từ phía người cư trú trong nước tới người cư trú ngoài nước được ghi vào bên tài sản nợ. Các giao dịch đòi hỏi sự thanh toán từ phía người cư trú ở ngoài nước cho người cư trú ở trong nước được ghi vào bên tài sản có. Tình trạng cán cân TTQT liên quan đến khả năng thanh toán của đất nước, của hệ thống NHTM và tác động đến tỷ giá hối đoái, dự trữ ngoại tệ của đất nước. Vì vậy, việc cải thiện cán cân TTQT có vai trò rất quan

99

trọng. Trong những năm gần đây, hoạt động XNK vẫn ở mức nhập siêu. Vì vậy, Chính phủ cần đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang ở trong cộng đồng AEC và tiến tới là hiệp định TPP được ký kết. Chính phủ cần có những chính sách bảo hộ nền sản xuất trong nước thông qua thuế, quản lý hạn ngạch … nhằm hạn chế nhập khẩu trước khi thị trường bị ảnh hưởng từ những hoạt động hội nhập đã nêu ở trên.

Chính phủ tham gia đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ thanh toán quốc tế

Để hiệu quả hoạt động TTQT được nâng cao, việc đào tạo hay bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ TTQT luôn là một trong những vấn đề trọng tâm. Song, tại Việt Nam mới chỉ có Đại học Ngoại thương là cơ sở đào tạo chuyên sâu duy nhất về hoạt động này, vì vậy không thể đáp ứng đủ cho nhu cầu của toàn hệ thống NHTM cũng như giáo dục đại học tại Việt Nam còn mang nặng lý thuyết, tức là sinh viên sau khi ra trường lại mất khoảng 2-3 tháng để đào tạo về nghiệp vụ. Từ đó có thể thấy, chính phủ cần chú trọng ngay từ bước đầu về đào tạo sinh viên nhằm trang bị kiến thức lý thuyết cũng như thực tế tốt nhất, để sau khi ra trường sinh viên có thể đáp ứng được nhu cầu cấp thiết hoạt nhà tuyển dụng. Ngoài ra, chính phủ cũng có thể mở ra các lớp huấn luyện nghiệp vụ cho cán bộ bằng các liên kết với các trường đại học hay những ngân hàng ở các quốc gia có hoạt động TTQT phát triển để có thể học hỏi, trau dồi kiến thức về hoạt động này.

3.3.3. Khuyến nghị với doanh nghiệp xuất nhập khẩu

Củng cố, nâng cao trình độ nghiệp vụ ngoại thương cho cán bộ làm công tác xuất nhập khẩu trong doanh nghiệp

Doanh nghiệp cần tuyển dụng những cán bộ chuyên ngành ngoại thương hoặc có kinh nghiệm trong lĩnh vực XNK để giúp doanh nghiệp có thể tiến hành hoạt động kinh doanh một cách thuận lợi và tránh khỏi những sai sót không mong muốn gây ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh hay sản xuất của mình. Ngoài ra, những cán bộ công tác XNK tại doanh nghiệp cũng cần có năng lực ngoại ngữ phù hợp với thị trường mà doanh nghiệp hoạt động để có thể đọc, hiểu chính xác những nội dung trong hợp đồng cũng như đàm phán chính xác yêu cầu của doanh nghiệp. Để làm được những việc này, doanh nghiệp không chỉ đẩy mạnh thắt chặt việc tuyển dụng từ ban đầu mà trong quá trình hoạt động doanh nghiệp cũng luôn đào tạo, huấn luyện, cho cán bộ đi tập huấn thêm để nâng cao trình độ về luật pháp, ngôn ngữ, các kỹ năng cần thiết phục vụ cho công việc.

Thành lập bộ phận tư pháp trong các doanh nghiệp

Hiện nay, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực XNK tại Việt Nam chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp này hầu như không có một bộ phận tư

100


Xem tất cả 124 trang.

Ngày đăng: 05/09/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí