Khái Niệm Công Ty Quản Lý Quỹ Đầu Tư

Tại Việt Nam, những quỹ đầu tư đầu tiên xuất hiện vào khoảng đầu những năm 1990, tuy nhiên trước năm 2000, tất cả các quỹ đầu tư ở Việt Nam đều là quỹ nước ngoài dưới dạng quỹ đóng, hoạt động với Văn phòng đại diện tại Việt Nam và đầu tư thông qua hình thức liên doanh. Tuy nhiên, phần lớn các quỹ này đều không thành công.

Sự ra đời của thị trường giao dịch chứng khoán tập trung đã đánh dấu sự biến động cả và lượng và chất của các quỹ đầu tư. Các quỹ đầu tư trong nước (Quỹ được thành lập theo Luật Chứng khoán Việt Nam) bắt đầu xuất hiện và phát triển đặc biệt sôi động từ năm 2006 đến 2008, cùng thời điểm với sự bùng nổ của thị trường chứng khoán Việt Nam.

Từ khi bắt đầu xuất hiện đến nay, ý tưởng chung về quỹ đầu tư hầu như không thay đổi, theo đó quỹ đầu tư được hiểu đơn giản là loại hình đầu tư ủy thác huy động tiền nhàn rỗi để đầu tư vào các cổ phiếu, trái phiếu, tiền tệ hay các loại tài sản khác. Tất cả các khoản đầu tư này đều được quản lý chuyên nghiệp, chặt chẽ bởi các công ty quản lý quỹ, ngân hàng giám sát và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền [18].

Các công ty quản lý quỹ gom các khoản tiền của các nhà đầu tư khác nhau thành một quỹ đầu tư và tiến hành đầu tư theo các tiêu chí và mục tiêu của quỹ. Với việc tập trung hóa và chuyên môn hóa cao, quỹ đầu tư có nhiều ưu điểm so với tự đầu tư như:

Tăng cường khả năng quản lý bởi các chuyên gia tài chính được đào tạo bài bản;

Giảm rủi ro thông qua đa dạng hóa danh mục đầu tư. Với số tiền đầu tư gộp lại cho phép việc đa dạng hóa thực hiện dễ dàng và hiệu quả;

Tiết kiệm chi phí giao dịch và quản lý so với việc xé lẻ các khoản đầu tư; và Các nhà đầu tư có nhiều sự lựa chọn loại quỹ muốn tham gia dựa theo tiêu

chí rủi ro và mục tiêu đầu tư.

1.1.1.2. Phân loại quỹ đầu tư

Hiện nay, trên thế giới có rất nhiều loại hình quỹ đầu tư căn cứ theo các tiêu chí phân loại khác nhau.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 189 trang tài liệu này.

a. Căn cứ vào nguồn vốn huy động:

- Quỹ đầu tư tập thể (quỹ công chúng): Quỹ huy động vốn bằng cách phát hành chứng chỉ quỹ rộng rãi ra công chúng. Nhà đầu tư có thể là cá nhân

hay pháp nhân nhưng đa phần là các nhà đầu tư riêng lẻ. Quỹ công chúng cung cấp cho các nhà đầu tư nhỏ một phương tiện đầu tư mà chỉ với số tiền ít ỏi vẫn có thể đảm bảo đa dạng hóa đầu tư, giảm thiểu rủi ro và chi phí đầu tư thấp với hiệu quả cao do tính chuyên nghiệp của nhà quản lý quỹ đầu tư mang lại.

- Quỹ đầu tư riêng lẻ (quỹ thành viên): Quỹ này huy động vốn bằng phương thức phát hành riêng lẻ cho một nhóm nhỏ các nhà đầu tư, có thể được lựa chọn trước, là các cá nhân hay tổ chức, do vậy tính thanh khoản của quỹ này sẽ thấp hơn quỹ công chúng. Số vốn góp của các nhà đầu tư vào các quỹ thành viên thường tương đối lớn, đổi lại họ có thể tham gia vào trong việc kiểm soát đầu tư của quỹ dưới vai trò của hội đồng đầu tư.

b. Căn cứ vào cấu trúc vận động:

- Quỹ dạng đóng (closed-end fund) là hình thức quỹ phát hành chứng chỉ quỹ một lần duy nhất khi tiến hành huy động vốn cho quỹ và quỹ không thực hiện việc mua lại cổ phiếu/ chứng chỉ quỹ đầu tư khi nhà đầu tư có nhu cầu bán lại. Nhằm tạo tính thanh khoản cho loại quỹ này, sau khi kết thúc việc huy động vốn (hay đóng quỹ), các chứng chỉ quỹ thường được niêm yết trên thị trường chứng khoán. Các nhà đầu tư có thể mua hoặc bán chứng chỉ quỹ của mình thông qua thị trường thứ cấp. Tổng vốn huy động của quỹ cố định và không biến đổi trong suốt thời gian hoạt động của quỹ. Đặc điểm không linh hoạt trong việc rút vốn này làm nảy sinh nhu cầu có thêm một loại sản phẩm khác là quỹ mở.

- Quỹ dạng mở (open-end fund) được hiểu đơn giản là loại hình quỹ mà nhà đầu tư có thể rút vốn, bán lại cho công ty quản lý quỹ trong thời gian hoạt động của quỹ. Hiểu rộng ra là quỹ mở bao gồm cả việc nhận ủy thác quản lý danh mục, khi nhà đầu tư (hoặc một nhóm nhà đầu tư) giao cho công ty quản lý quỹ đầu tư hộ một số tiền trong một khoảng thời gian xác định. Số tiền đó có thể biến động theo thời gian, công ty quản lý quỹ phải đáp ứng khi nhà đầu tư phát sinh nhu cầu rút tiền hoặc gửi thêm tiền. Đối với hình thức quỹ này, các giao dịch mua bán chứng chỉ quỹ được thực hiện trực tiếp với công ty quản lý quỹ và các chứng chỉ quỹ không được niêm yết trên thị trường chứng khoán. Đây là loại hình sản phẩm thường được áp dụng cho các nhà đầu tư cá nhân giàu có hoặc các doanh nghiệp có dòng tiền nhàn rỗi (ví dụ các ngân hàng,

doanh nghiệp bảo hiểm…). Hiện nay trên thế giới đa số các quỹ được lập là quỹ dạng mở [44].

Ngoài ra còn có rất nhiều loại quỹ khác nhau với những tên gọi khác và có các đặc điểm tương tự hoặc lai ghép giữa hai loại quỹ. Ví dụ quỹ dạng đóng sau một thời gian hoạt động lại tiến hành tăng vốn phát hành cho nhà đầu tư mới, hoặc quỹ dạng mở sau khi đạt đến một quy mô nào đó sẽ không phát hành cho nhà đầu tư mới nhằm đảm bảo hiệu quả đẩu tư…

c. Căn cứ vào cơ cấu tổ chức và hoạt động của quỹ:

- Quỹ đầu tư dạng công ty: Trong mô hình này, quỹ đầu tư là một pháp nhân, tức là một công ty được hình thành theo quy định của pháp luật từng nước. Cơ quan điều hành cao nhất của quỹ là hội đồng quản trị do các cổ đông (nhà đầu tư) bầu ra, có nhiệm vụ chính là quản lý toàn bộ hoạt động của quỹ, lựa chọn công ty quản lý quỹ và giám sát hoạt động đầu tư của công ty quản lý quỹ và có quyền thay đổi công ty quản lý quỹ. Trong mô hình này, công ty quản lý quỹ hoạt động như một nhà tư vấn đầu tư, chịu trách nhiệm tiến hành phân tích đầu tư, quản lý danh mục đầu tư và thực hiện các công việc quản trị kinh doanh khác. Mô hình này ở Việt nam được gọi là công ty đầu tư, cơ cấu tổ chức và hoạt động của công ty được điều chỉnh bởi Luật chứng khoán và do UBCKNN cấp giấy phép hoạt động.

- Quỹ đầu tư dạng hợp đồng: Khác với mô hình quỹ đầu tư dạng công ty, trong mô hình này, quỹ đầu tư không phải là pháp nhân. Công ty quản lý quỹ đứng ra thành lập quỹ, tiến hàng việc huy động vốn, thực hiện việc đầu tư theo những mục tiêu đã đề ra trong điều lệ quỹ. Bên cạnh đó, ngân hàng giám sát có vai trò bảo quản vốn và các tài sản của quỹ, quan hệ giữa công ty quản lý quỹ và ngân hàng giám sát được thể hiện bằng hợp đồng giám sát trong đó quy định quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên trong việc thực hiện và giám sát việc đầu tư để bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư. Nhà đầu tư là người góp vốn vào quỹ (nhưng không phải là cổ đông như mô hình quỹ đầu tư dạng công ty) và ủy thác việc đầu tư cho công ty quản lý quỹ để đảm bảo khả năng sinh lợi cao nhất từ khoản vốn đóng góp của họ.

d. Các loại quỹ đầu tư tại Mỹ:

- Quỹ tương hỗ (mutual fund): Quỹ tương hỗ là một loại quỹ công chúng. Hầu hết các quỹ tương hỗ được tổ chức ở dạng quỹ mở. Chiến thuật đầu tư của

quỹ tương hỗ có thể đạt được mục tiêu thu nhập (cổ tức) hoặc mục tiêu tăng trưởng của tài sản, hoặc cả hai [52]. Với tư cách là một loại quỹ công chúng, nên quỹ tương hỗ bị điều chỉnh bởi các quy định chặt chẽ của các cơ quan chức năng. Quỹ tương hỗ không được phép bán khống như các loại cổ phiếu khác vì không được niêm yết trên thị trường chứng khoán [32]. Việc đầu tư hay thoái vốn được thực hiện trực tiếp với công ty quản lý quỹ. Hầu hết quỹ tương hỗ là quỹ chủ động. Do đó, NAV không nhất thiết chuyển động song hành cùng với chỉ số thị trường mà có thể hoạt động tốt hơn hoặc xấu hơn chỉ số thị trường tùy thuộc vào khả năng chọn lựa danh mục tài sản của công ty quản lý quỹ [34].

- Quỹ hưu trí (pension fund): Quỹ hưu trí là một dạng quỹ mà người chủ lao động đóng tiền thay mặt cho nhân viên với mục đích đầu tư nhằm đảm bảo quyền lợi hưu trí cho người về hưu. Khoản tiền thanh toán cho người về hưu có thể thanh toán nhiều lần hoặc thanh toán một cục. Quỹ hưu trí chia thành hai loại: quyền lợi xác định và đóng tiền xác định. Quỹ hưu trí có quyền lợi xác định (defined benefit) là loại quỹ mà nhân viên được xác định mức lương hưu dựa vào các nhân tố như bậc lương, số năm công tác, tuổi về hưu và một số nhân tố khác. Thông thường người về hưu sẽ được lĩnh một khoản lương hưu cố định đến khi qua đời. Do đó, chủ lao động phải gánh chịu các rủi ro đầu tư. Quỹ hưu trí đóng tiền xác định (defined contribution) là loại qux mà chủ lao động đóng một số tiền xác định theo tỷ lệ phần trăm lương cơ bản của nhân viên theo tháng. Chủ lao động không cam kết số tiền sau này nhân viên nhận được khi về hưu và do đó không chịu rủi ro đầu tư. Ngày nay, các chủ lao động có xu hướng chuyển từ quỹ có quyền lợi xác định sang quỹ đóng tiền xác định nhằm giảm bớt trách nhiệm của họ.

- Quỹ tín thác (Unit Investment Trust): là một dạng công ty đầu tư nắm giữ danh mục đầu tư một cách tương đối ổn định. Quỹ tín thác thường có thời hạn hoạt động cụ thể. Có nhiều loại quỹ tín thác được thành lập với các mục đích khác nhau như quỹ tín thác đầu tư trái phiếu doanh nghiệp, quỹ tín thác đầu tư cổ phiếu, quỹ tín thác đầu tư trái phiếu quốc tế, quỹ tín thác đầu tư trái phiếu chính quyền địa phương, quỹ tín thác đầu tư chứng khoán chính phủ.

- Quỹ mạo hiểm (venture capital): Quỹ đầu tư mạo hiểm thường là loại quỹ thành viên gom tiền từ một số ít các nhà đầu tư mạo hiểm có tài sản lớn, thông qua chào bán riêng lẻ. Các nhà đầu tư thường là những người giàu có,

các công ty bảo hiểm, các công ty tài chính. Thời hạn hoạt động khoảng 10-15 năm. Quỹ mạo hiểm thường được tổ chức dưới dạng công ty hợp danh trách nhiệm hữu hạn. Công ty quản lý quỹ thường đóng vai trò thành viên quản lý có vai trò chủ chốt và đảm nhiệm điều hành công việc hàng ngày của quỹ và được phân chia khoảng 20% lợi nhuận cộng với phí quản lý quỹ. Các thành viên góp vốn không tham gia điều hành được chia 80% còn lại [37].

- Quỹ mua doanh nghiệp (buyout): là một dạng quỹ đầu tư thực hiện mua bán doanh nghiệp hoặc một bộ phận của doanh nghiệp thông qua sử dụng đòn bẩy tài chính (vốn vay). Nguyên tắc hoạt động của loại quỹ này là xác định ra các doanh nghiệp mục tiêu và tiến hành mua doanh nghiệp có sử dụng các khoản vốn vay bên ngoài. Sau khi phát triển doanh nghiệp đã mua, quỹ sẽ tiến hành thoái vốn thu lợi nhuận. Việc mua doanh nghiệp có thể được kết hợp cùng hoặc không cùng với ban điều hành hiện hữu của doanh nghiệp. Cùng với đầu tư mạo hiểm, quy mua doanh nghiệp là một chiến thuật đầu tư vốn tư nhân rất hiệu quả.

- Quỹ đầu cơ (hedge fund): Quỹ đầu cơ là một quỹ thành viên của một số nhà đầu tư có điều kiện (đạt được một số điều kiện về giá trị tài sản đầu tư). Quỹ đầu cơ có thể áp dụng các chiến thuật đầu tư rủi ro như có thể sử dụng công cụ phái sinh, có thể dùng đòn bẩy tài chính và có thể duy trì trạng thái “đoản” đối với các danh mục đầu tư. Quỹ rủi ro không chịu sự kiểm soát ngặt nghèo của cơ quan chức năng như các quỹ công chúng [47].

- Quỹ niêm yết (ETF): Quỹ niêm yết là một loại quỹ chỉ số được niêm yết trên thị trường chứng khoán. Do đó loại quỹ này có tính thanh khoản cao. Quỹ chỉ số là một loại quỹ bị động tiến hành đầu tư tất cả các mã chững khoán trong rổ chỉ số theo đúng tỷ trọng về vốn hóa thị trường nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng bằng tốc độ tăng trưởng của chỉ số cổ phiếu. Do tính chất bị động nên sự can thiệp của công ty quản lý quỹ là rất ít. Việc mua bán các chứng khoán trong danh mục đầu tư chỉ thực hiện khi có sự thay đổi thành phần của rổ chỉ số hoặc thay đổi tỷ trọng vốn hóa của chúng. Trong trường hợp công ty quản lý quỹ không duy trì chính xác tỷ trọng cơ cấu của danh mục đầu tư khớp với rổ chỉ số thì NAV có thể biến động tốt hơn hoặc xấu hơn biến động của chỉ số trong một khoảng thời gian nhất định. Sự chênh lệch này gọi là lỗi sai số đầu tư. Lợi ích của quỹ niêm yết:

Đây là loại quỹ đơn giản, dễ quản lý do tính chất bị động của việc lựa chọn danh mục. Do đó chi phí quản lý nhà đầu tư phải trả cho công ty quản lý quỹ thấp;

Tính thanh khoản cao do được niêm yết. Nhà đầu tư có thể mua bán bất cứ lúc nào trong ngày và có thể áp dụng lệnh dừng lỗ hay lệnh giới hạn giá như các cổ phiếu khác;

Cho phép nhà đầu tư bán khống, qua đó nắm giữ được trạng thái đoản để đầu cơ xuống giá;

Mức độ minh bạch cao do nhà đầu tư có thể biết được cấu phần của danh mục đầu tư;

Đối với các nhà đầu tư có tổ chức, quỹ chỉ số là một công cụ thay thế cho hợp đồng tương lai song tránh được tính chất ngắn hạn của hợp đồng tương lai.

- Quỹ tín thác đầu tư bất động sản (REIT): Quỹ tín thác đầu tư bất động sản là một loại quỹ tín thác gom tiền của các nhà đầu tư với mục tiêu để đầu tư vào các loại bất động sản nhà ở và bất động sản thương mại. Quỹ tín thác đầu tư bất động sản hoạt động như một quỹ đầu tư thông thường ngoại trừ danh mục đầu tư là bất động sản. Quỹ tín thác đầu tư bất động sản cũng có thể được niêm yết trên thị trường chứng khoán. Lợi ích của quỹ tín thác đầu tư bất động sản là:

REIT có tính thanh khoản tương đối cao do có thể được niêm yết;

Do đặc thù các khoản thu nhập chủ yếu là tiền cho thuê bất động sản nên phần lớn các khoản thu nhập này sẽ được thanh toán dưới dạng cổ tức cho các nhà đầu tư mà không cần giữ lại. Việc phân chia tỷ lệ cổ tức này cũng là điều kiện để miễn thuế cho các cổ đông;

Lợi nhuận của REIT hấp dẫn hơn so với các loại hình tài sản khác;

Đầu tư bất động sản có mức độ tương quan với các loại tài sản khác khá thấp, do đó đây là một loại tài sản tốt để đa dạng hóa danh mục đầu tư.

Quỹ tín thác đầu tư bất động sản có thể phân thành 3 loại sau:

REIT đầu tư bất động sản cho thuê: thực hiện việc mua và quản lý bất động sản để thu tiền thuê;

REIT cho vay thế chấp mua nhà: thực hiện việc cho vay thế chấp mua nhà đối với bất động sản thương mại và bất động sản dân cư. Thu nhập chính từ lãi suất cho vay;

REIT hỗn hợp: vừa đầu tư bất động sản cho thuê vừa cho vay thế chấp bất động sản. Thu nhập chính từ tiền thuê và lãi cho vay.

Trong ba loại trên thì REIT đầu tư bất động sản cho thuê là thông dụng nhất, chiếm 90% mức vốn hóa của các quỹ tín thác đầu tư bất động sản.

1.1.2. Công ty quản lý quỹ đầu tư

1.1.2.1. Khái niệm công ty quản lý quỹ đầu tư

Công ty quản lý quỹ là một loại hình tổ chức trung gian tài chính, chuyên thành lập và quản lý các quỹ đầu tư trung và dài hạn của công chúng [1]. Công ty đầu tư sử dụng nhà tư vấn đầu tư, hay người quản lý đầu tư để quyết định loại chứng khoán nào sẽ được đưa vào danh mục đầu tư của Quỹ. Ở Việt Nam, công ty quản lý quỹ được quản lý bởi Ủy ban chứng khoán nhà nước.

Nhìn chung, cách hiểu về công ty quản lý quỹ quy định trong Luật Chứng khoán số 70/2006/QH11 tương đối đồng nhất với cách hiểu chung của thế giới. Theo đó, công ty quản lý quỹ đầu tư là loại hình tổ chức có chức năng cung cấp dịch vụ quản lý quỹ đầu tư chứng khoán và danh mục ủy thác đầu tư chứng khoán cho các nhà đầu tư trên thị trường [30]. Dưới sự điều hành của Công ty quản lý quỹ, thông qua Quỹ đầu tư, vốn đầu tư của các cá nhân, tổ chức được luân chuyển hiệu quả theo mô hình sau:

Biểu đồ 1 1 Sơ đồ luân chuyển vốn của quỹ đầu tư Chất lượng hoạt 1

Biểu đồ 1.1: Sơ đồ luân chuyển vốn của quỹ đầu tư


Chất lượng hoạt động đầu tư của công ty quản lý quỹ có ảnh hưởng quan trọng đến kết quả hoạt động của quỹ đối với các mục tiêu đầu tư đề ra. Công ty

quản lý quỹ vì thế sẽ nhận được phí quản lý và các khoản thưởng nhằm khuyến khích cố gắng nếu kết quả đạt được trên mức kỳ vọng. Các loại quỹ khác nhau có cơ cấu phí quản ly và cấu trúc thường khác nhau.

Như vậy, công ty quản lý quỹ thông qua các quỹ đầu tư đã định hướng dòng vốn nhàn rỗi vào những nơi cần vốn, hơn nữa còn tối ưu hóa hiệu quả đầu tư, nâng cao khả năng sinh lời của đồng vốn.

Bên cạnh những đặc điểm chung của một trung gian tài chính, công ty quản lý quỹ còn có những đặc điểm riêng về hoạt động, mô hình cũng như cơ chế giám sát.

1.1.2.2. Phân loại công ty quản lý quỹ đầu tư

Luật Công ty Đầu Tư (The Investment Company Act) năm 1940 của Mỹ đã phân loại công ty đầu tư như sau:

a. Công ty phát hành chứng chỉ có giá mặt (face-amount certificate company)

Loại công ty đầu tư này phát hành các chứng chỉ thuộc dạng nợ, chào bán theo một mức lãi mặc định. Một chứng chỉ có giá mặt face-amount certificate thể hiện bản chất như một hợp đồng giữa người đầu tư và người phát hành, trong đó người phát hành bảo đảm sẽ trả một khoản tiền cụ thể được ghi cho người đầu tư vào một ngày nhất định trong tương lai. Các chứng chỉ này thường được mua theo cách trả góp định kỳ, nhưng cũng có thể bằng cách trả trọn một lần. Người mua chứng chỉ phải trả một khoản phí bán và phí quản lý quỹ. Các chứng chỉ có thể được hoàn lại trước kỳ đáo hạn và được tính theo ngang giá bỏ cuộc– theo quy định giống như trong ngành bảo hiểm. Ngày nay do sự cạnh tranh của nhiều định chế đầu tư thay thế khác hấp dẫn và thuận lợi hơn nên loại chứng chỉ có giá mặt này không còn phát huy tác dụng trên các thị trường hiện đại [56].

b. Công ty Quỹ đầu tư uỷ thác theo đơn vị (UIT)

Quỹ đầu tư uỷ thác theo đơn vị UIT - Unit Investment Trust là dạng được thành lập theo một khế ước, hay một công cụ tương đương về mặt pháp lý và được giám sát thừa uỷ nhiệm bởi một cá nhân hay tổ chức, thường là tổ chức. Việc lập quỹ chứng khoán ban đầu sẽ được một cố vấn đầu tư thu xếp gộp vào trong một danh mục, rồi phân ra thành các đơn vị để bán cho người đầu tư, thông qua các nhà môi giới. Các đơn vị như vậy thường được bán theo giá trị tròn 1.000

Xem tất cả 189 trang.

Ngày đăng: 27/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí