các hồ sơ vay. Đồng thời, căn cứ vào thực trạng công tác thẩm định cho vay DNNVV tại các NHTM trên địa bàn tỉnh Phú Thọ hiện nay, luận văn đưa ra một số giải pháp góp phần hoàn thiện công tác thẩm định cho vay tại các NHTM.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: Các NHTM trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
Phạm vi nghiên cứu: Công tác thẩm định cho vay các DNNVV tại NHTM trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Sử dụng phương pháp duy vật biến chứng kết hợp với nghiên cứu lý thuyết, phương pháp thống kê, điều tra, phân tích, đánh giá; đi từ cơ sở lý thuyết đến thực tiễn, đồng thời đối chiếu với công tác thẩm định cho vay DNNVV tại các NHTM nhằm giải quyết và làm sáng tỏ mục đích đặt ra trong luận văn.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn:
Hệ thống hoá những vấn đề cơ bản về thẩm định cho vay DNNVV tại các NHTM.
Phân tích và đúc kết lý luận về phương pháp thẩm định cho vay DNNVV tại các NHTM.
Góp phần nâng cao chất lượng công tác thẩm định cho vay các DNNVV tại các NHTM trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
6. Kết cấu luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề chung về thẩm định cho vay DNNVV.
Chương II: Thực trạng công tác thẩm định cho vay DNNVV tại các NHTM trên địa bàn tỉnh Phú Thọ hiện nay.
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác thẩm định cho vay DNNVV tại các NHTM trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THẨM ĐỊNH CHO VAY DNNVV
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DNNVV:
1.1.1. Định nghĩa DNNVV:
Theo Điều 3, Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc trợ giúp DNNVV, đã định nghĩa DNNVV như sau: “Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động bình quân hàng năm không quá 300 người”.
Còn theo Nghị đinh số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 của chính phủ về trợ giúp phát triển DNNVV thì Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên), cụ thể như sau:
Doanh nghiệp siêu nhỏ | Doanh nghiệp nhỏ | Doanh nghiệp vừa | |||
Số lao động | Tổng nguồn vốn | Số lao động | Tổng nguồn vốn | Số lao động | |
I. Nông, lâm nghiệp và thủy sản | 10 người trở xuống | 20 tỷ đồng trở xuống | Từ trên 10 người đến 200 người | Từ trên 20 tỷ đồng đến 100 tỷ đồng | Từ trên 200 người đến 300 người |
II. Công nghiệp và xây dựng | 10 người trở xuống | 20 tỷ đồng trở xuống | Từ trên 10 người đến 200 người | Từ trên 20 tỷ đồng đến 100 tỷ đồng | Từ trên 200 người đến 300 người |
III. Thương mại và dịch vụ | 10 người trở xuống | 10 tỷ đồng trở xuống | Từ trên 10 người đến 50 người | Từ trên 10 tỷ đồng đến 50 tỷ đồng | Từ trên 50 người đến 100 người |
Có thể bạn quan tâm!
- Nâng cao chất lượng công tác thẩm định cho vay các Doanh nghiệp nhỏ và vừa trong hoạt động tại các Ngân hàng Thương mại trên địa bàn Tỉnh Phú Thọ - 1
- Thẩm Định Tình Hình Hoạt Động, Sản Xuất Kinh Doanh Của Dn:
- Nâng cao chất lượng công tác thẩm định cho vay các Doanh nghiệp nhỏ và vừa trong hoạt động tại các Ngân hàng Thương mại trên địa bàn Tỉnh Phú Thọ - 4
- Thẩm Định Rủi Ro Tín Dụng Độc Lập Đối Với Khoản Vay:
Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.
Căn cứ vào tình hình kinh tế - xã hội cụ thể của ngành, địa phương, trong quá trình thực hiện các biện pháp, Chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng đồng thời cả hai chỉ tiêu vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu nói trên. Đây chính là cơ sở pháp lý chính thức hiện nay để tiến hành phân loại DNNVV.
Việc xây dựng các tiêu chí để phân định DNNVV có ý nghĩa quan trọng vì qua đó, làm cơ sở theo dõi và phân tích các số liệu thống kê về tình hình hoạt động của DNNVV, làm nền tảng cho việc hoạch định chiến lược và tìm ra các giải pháp nhằm hỗ trợ cho loại hình doanh nghiệp này hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả hơn.
1.1.2. Đặc điểm và vai trò DNNVV tại Việt Nam:
Luật Doanh nghiệp ra đời và đi vào cuộc sống đã làm thay đổi căn bản môi trường kinh doanh tại Việt Nam. Sự tác động toàn diện và sâu sắc của Luật Doanh nghiệp đã tạo điều kiện cho hàng loạt DNNVV ra đời và đi vào hoạt động. Cho tới nay có thể khẳng định rằng DNNVV có vị trí quan trọng trong sự phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước. Thực tế các nước trên thế giới cho thấy, một khu vực DNNVV lớn mạnh là đặc điểm quan trọng của một nền kinh tế thành công. Cũng như nhiều quốc gia khác, tầm quan trọng của khu vực DNNVV ở Việt Nam ngày càng được chú trọng hơn trên nhiều phương diện xã hội. Mặc dù loại hình DNNVV còn tồn tại những hạn chế nhất định, nhưng sau nhiều năm đổi mới khu vực này đã mang lại nhiều thành công, bước tiến cho nền kinh tế Việt Nam. Các DNNVV thu hút và tạo công ăn việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp góp phần ổn định an sinh xã hội. Ngoài ra, với việc huy động các nguồn vốn xã hội vào phát triển kinh tế đất nước, các DNNVV góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, gia tăng thu nhập quốc dân.
Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập quốc tế ngày một sâu rộng và tình hình kinh tế thế giới cũng như Việt Nam đang trải qua giai đoạn khó khăn, DNNVV Việt Nam nói chung và trên địa bàn tỉnh Phú Thọ nói riêng đang đứng trước những khó khăn, thách thức. Các DNNVV đã có những tiến bộ, đổi mới nhất định để đáp ứng với tình hình mới. Tuy nhiên, qua đó các DNNVV đã bộc lộ những tồn tại, hạn chế,
yếu kém của mình. Các hạn chế đó là:
- Hạn chế về vốn:
Vốn luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của các DNNVV, rất nhiều doanh nghiệp hiện nay thiếu vốn. Mặc dù đã có những chuyển biến lớn về vốn của DNNVV, nhưng với áp lực cạnh tranh ngày càng cao, những chuyển biến đó chưa đáp ứng được nhu cầu đầu tư phát triển của DN. Do thiếu vốn, dẫn đến hàng loạt các khó khăn ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh và sự tồn tại của DN như: không có điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh, phát triển và duy trì thị phần, khả năng đầu tư vào phương tiện kỹ thuật, trang bị, cải tiến máy móc thiết bị hiện đại để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm bị hạn chế, khó thu hút được lực lượng lao động và nhân sự có trình độ, tay nghề cao.
- Trình độ lao động và quản lý còn thấp:
Trình độ và tay nghề của người lao động và đội ngũ quản lý trong các DNNVV cũng là một trong những vấn đề bức xúc hiện nay. Các chủ doanh nghiệp có trình độ học vấn từ trung cấp trở xuống chiếm phần lớn. Điều đáng chú ý là đa số các chủ doanh nghiệp ngay cả những người có trình độ học vấn từ cao đẳng và đại học trở lên thì cũng ít người được đào tạo về kiến thức kinh tế và quản trị doanh nghiệp. Điều này có ảnh hưởng lớn đến việc lập chiến lược phát triển, định hướng kinh doanh và quản lý của các doanh nghiệp Việt Nam. Lực lượng lao động chủ yếu là lao động phổ thông, ít được đào tạo tay nghề và thiếu kỹ năng, đồng thời cũng ít được chủ DN quan tâm đào tạo và đào tạo lại nhằm nâng cao tay nghề, trình độ cho lao động trong khi chất lượng nguồn lao động có ý nghĩa quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của DN.
- Kỹ thuật công nghệ còn lạc hậu:
Công nghệ là yếu tố quyết định đến năng suất, chất lượng của sản phẩm, sức cạnh tranh trên thị trường. Với việc hội nhập ngày càng sâu rộng vào kinh tế thế giới, trong những năm qua các DNNVV Việt Nam nói chung và trên địa bàn tỉnh Phú Thọ nói riêng quá trình đổi mới công nghệ đã có nhiều chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, do nguồn vốn tài chính hạn hẹp và nhận thức về tầm quan trọng của
khoa học công nghệ còn hạn chế, dẫn đến các DN chưa thể tự mình đổi mới cũng như áp dụng mạnh mẽ công nghệ, kỹ thuật tiên tiến vào quá trình sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, nhiều DN chưa thực sự xem yếu tố công nghệ là yếu tố cạnh tranh, tồn tại sống còn của DN.
- Thiếu thông tin thị trường:
Một trong những yếu tố làm cho khả năng cạnh tranh của DNNVV bị hạn chế đó là tình trạng thiếu thông tin thị trường về sản phẩm, thị trường công nghệ, máy móc thiết bị, chưa có những phát minh, sáng chế mới. Vì vậy, sản phẩm làm ra có mẫu mã, kiểu dáng không thật hấp dẫn, chất lượng hạn chế, dẫn đến khó cạnh tranh do không đáp ứng được nhu cầu của thị trường và DN khó có thể chủ động thay đổi chiến lược kinh doanh khi thị trường thay đổi.
- Hạn chế trong việc đổi mới và bảo vệ quyền sở hữu trí.
Một trong những yếu điểm của DN Việt Nam là chưa tự nhận thức được giá trị của những thành quả đầu tư do chính họ sáng tạo ra, hoặc khi có nhận thức thì không biết làm thế nào để bảo vệ những thành quả đó mà không bị người khác xâm phạm. Dẫn đến, các DN Việt Nam chưa đưa ra được nhiều sản phẩm/dịch vụ mới, nhất là mới đối với thị trường.
- Hạn chế trong việc xây dựng báo cáo tài chính.
Báo cáo tài chính không cho biết về sự mất mát các khách hàng lớn, về môi trường cạnh tranh mà DN đang hoạt động, không thể hiện những triển vọng tương lai của DN, kết quả của các khoản chi về nghiên cứu và phát triển, việc giới thiệu sản phẩm mới, các chiến dịch tiếp thị mới, chiến lược định giá mới, những quyết định tham gia hoặt rút khỏi đoạn thị trường cụ thể của khách hàng. Các báo cáo chưa được kiểm toán có thể hoặc không tuân theo những nguyên tắc kế toán được chấp nhận rộng rãi và có thể sẽ gây ra sai lầm nghiêm trọng. Kiểm toán báo cáo tài chính không đem lại sự bảo đảm chính xác, kể cả khi báo cáo tài chính được kiểm toán vẫn có các sai lệch có chủ ý trong báo cáo tài chính.
1.1.3. Mối quan hệ tín dụng NHTM với DNNVV.
1.1.3.1. Vai trò tín dụng ngân hàng đối với DNNVV.
Ở mỗi nước, do trình độ phát triển kinh tế và chiến lược kinh tế - xã hội khác nhau cho nên vai trò tín dụng Ngân hàng được thể hiện và có những định hướng khác nhau. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, nhiệm vụ được đặt ra là tín dụng Ngân hàng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế nói chung và hoạt động của các doanh nghiệp nói riêng. Thể hiện qua các mặt sau:
- Tín dụng ngân hàng là nguồn bổ sung vốn quan trọng đáp ứng nhu cầu vốn lưu động phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của các DN. Đồng thời cũng là nguồn bổ sung vốn quan trọng đáp ứng nhu cầu vốn cố định nhằm đổi mới trang thiết bị, tăng cường cơ sở vật chất, đối với công nghệ kỹ thuật đối với các DN.
- Góp phần cải thiện năng lực quản lý sản xuất kinh doanh, năng lực quản lý tài chính của DN; tăng thu hút vốn nhàn rỗi trong nước, mở rộng đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh; nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tránh tình trạng sử dụng vốn sai mục đích; góp phần bảo đảm cho hoạt động của DN được liên tục thuận lợi và hạn chế rủi ro; nâng cao khẳ năng cạnh tranh của DNNVV và hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho DNNVV; tăng cường chế độ hạch toán kinh tế của các DN.
- Tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp cho phép ngân hàng cải thiện về thu nhập, nâng cao vị thế cạnh tranh và phát triển lâu dài. Cùng với việc cung cấp tín dụng ngân hàng cho các doanh nghiệp một cách có hiệu quả, các ngân hàng cũng đồng thời đóng góp vào việc thực hiện thành công các chính sách kinh tế, xã hội của Nhà nước.
1.1.3.2. Quan hệ tín dụng NHTM với DNNVV.
Mỗi lĩnh vực sản xuất, kinh doanh có đặc thù riêng và chịu tác động của nhiều yếu tố khác nhau, tuy nhiên dù bất cứ một loại hình sản xuất kinh doanh nào vòng tuần hoàn vốn của DN cũng bắt đầu bằng một số vốn tiền tệ ban đầu và kết thúc bằng sự quay trở về của vốn tiền tệ. Để thấy rõ quan hệ về tín dụng giữa NHTM và DN cần phải xem xét sự vận động và tuần hoàn vốn kinh doanh của cả hai chủ thể này:
Ngân hàng cấp tín dụng cho DN: ở giai đoạn này vốn tiền tệ được chuyển từ Ngân hàng cho vay sang DN đi vay để nhận lại sự cam kết hoàn trả vốn và lãi theo đúng thời hạn thỏa thuận, đây là quan hệ một chiều. Chính vì quan hệ một chiều này mà ngân hàng luôn thận trọng nghiên cứu kỹ về khách hàng trước khi đưa ra quyết định cho vay.
DN sử dụng vốn vào hoạt động sản suất kinh doanh: Khi nhận được vốn tín dụng, DN được chuyển quyền sử dụng giá trị đó để thỏa mãn mục đích đã định. Từ đây vốn tín dụng lần lượt trải qua các giai đoạn sản xuất và lưu thông hàng hoá, nó được chuyển hóa từ hình thái tiền tệ sang trạng thái khác và kết thúc chu kỳ kinh doanh nó quay về hình thái ban đầu. DN hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả đồng nghĩa với việc vốn đầu tư ban đầu gia tăng, trong vốn đầu tư ban đầu có một phần vốn tín dụng. Như vậy vốn tín dụng không tự gia tăng mà giá trị tăng thêm là kết quả của quá trình sản xuất kinh doanh.
Thu hồi vốn tín dụng: Kết thúc quá trình sản xuất kinh doanh vốn tiền tệ được giải phóng, DN phải hoàn trả vốn vay cùng với khoản lãi vay, hay nói cánh khác vốn tín dụng quay trở về với Ngân hàng.
Để một vòng quay vốn của DN hiệu quả không chỉ phụ thuộc vào đặc điểm, quy trình công nghệ sản xuất và còn phụ thuộc vào trình độ quản lý sản xuất, chuyên môn nghiệp vụ, môi trường pháp lý, môi trường kinh doanh, môi trường kinh tế xã hội, điều kiện tự nhiên,...Bên cạnh đó sự hoàn trả vốn cho ngân hàng của DN cũng chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố về phía NH, như: trình độ ngân hàng trong việc đánh giá năng lực kinh doanh, năng lực trả nợ của doanh nghiệp, việc áp dụng kỳ hạn nợ, lãi suất có hợp lý không, việc giải ngân và thu hồi vốn có phù hợp với chu kỳ ngân quỹ của DN không.
Bên cạnh đó, với nghiệp vụ huy động vốn ngân hàng tạo điều kiện cho các DN có cơ hội đầu tư, sinh lời từ vốn nhàn rỗi, đồng thời các ngân hàng có điều kiện cung ứng vốn cho các doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn.
Sự phân tích trên cho thấy khả năng hoàn trả vốn tín dụng phụ thuộc rất lớn vào hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sử dụng vốn vay. Hiệu quả của hoạt động tín dụng không chỉ phụ thuộc vào chính bản thân ngân hàng mà còn phụ thuộc lớn vào năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy vốn tín dụng ngân hàng và hoạt động sản xuất kinh doanh của DN có quan hệ chặt chẽ với nhau.
1.1.3.3. Các nhu cầu tài chính cần vay vốn của DNNVV:
Với áp lực cạnh tranh gay gắt như hiện nay, để tồn tại và phát triển, nhu cầu tài chính của một DNNVV cũng đòi hỏi gia tăng không ngừng. Các nhu cầu chính về vốn vay của DN bao gồm:
Bổ sung vốn ngắn hạn sản xuất kinh doanh. Đây là những nhu cầu cần vay vốn với thời gian ngắn hạn (từ 12 tháng trở lại), thường được sử dụng với mục đích như: thanh toán tiền hàng, nguyên vật liệu, chi trả lương, thanh toán các chi phí điện nước.
Đầu tư vốn vào các dự án làm tăng tài sản cố định: nhu cầu vay vốn có thời gian trung dài hạn (từ một năm trở lên), thường được sử dụng để đầu tư xây dựng và mở rộng nhà xưởng , mua hoặc cải tiến máy móc thiết bị.
1.2. CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH CHO VAY CỦA NHTM:
1.2.1. Khái niệm công tác thẩm định cho vay:
Công tác thẩm định cho vay bắt đầu từ khi DN có phát sinh nhu cầu cần vay vốn NH và tiến hành nộp hồ sơ xin vay tại ngân hàng. Hồ sơ xin vay vốn của khách hàng là những tài liệu do khách hàng cung cấp, làm cơ sở cho ngân hàng xem xét thẩm định cho vay.
Như vậy, công tác thẩm định cho vay của ngân hàng thực chất là thẩm định hồ sơ xin vay vốn do khách hàng cung cấp và các thông tin có liên quan tới khách hàng. Trên cơ sở các quy định, quy trình cho vay đã ban hành, ngân hàng sẽ tổ chức xem xét một cách khách quan, toàn diện các vấn đề có liên quan đến DN và nhu cầu