Công Ty Quản Lý Nợ Có Thời Gian Hoạt Động Xác Định Và Tương Đối Ngắn

Mục tiêu quan trọng nhất của công ty quản lý nợ là thu hồi tối đa giá trị từ các khoản nợ được chuyển giao, giảm tối đa các chi phí phát sinh trong quá trình xử lý nợ hoặc nhanh chóng chuyển nhượng tài sản đảm bảo tồn đọng thành tiền, quá đó làm lành mạnh tình hình tài chính của hệ thống ngân hàng.


Đối tượng được chuyển giao cho công ty quản lý nợ là các khoản nợ quá hạn mà bên vay đang trong tình trạng không thể thanh toán nợ do gặp khó khăn về tài chính; nhiều khoản nợ không có tài sản đảm bảo hoặc giá trị tài sản đảm bảo không

đủ bù đắp khoản vay; tài sản đảm bảo, tài sản gắn nợ không thể chuyển nhượng do thị trường “đóng băng” hoặc do không đủ giấy tờ hợp pháp … Do vậy, khả năng thu hồi đối với những khoản vay này rất khó khăn thậm chí luôn tiềm ẩn nguy cơ “mất trắng”. Bằng các kỹ năng đặc biệt như đầu tư thêm chi phí, cơ cấu lại khoản nợ hoặc tối ưu hoá giá trị tài sản đảm bảo, công ty quản lý nợ mới hy vọng thu hồi nợ gốc đã cho vay. Trong khi đó, các doanh nghiệp đòi nợ thuê luôn hoạt động vì lợi nhuận. Doanh thu từ việc đòi nợ thuê đương nhiên bù đắp những chi phí phát sinh, đồng thời phải đem lại cho doanh nghiệp những khoản thu nhập nhất định. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu chắc chắn cao hơn lãi suất gửi tiết kiệm và cao hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế. Bởi, nếu tỷ suất này bằng lãi suất gửi tiết kiệm thì chủ doanh nghiệp có thể gửi tiền tại ngân hàng hưởng lãi suất chứ không phải bỏ sức ra kinh doanh. Ngoài ra, đòi nợ thuê, kinh doanh nợ là lĩnh vực có rủi ro, nếu tỷ suất lợi nhuận không cao thì doanh nghiệp sẽ lựa chọn những lĩnh vực khác đầu tư để tránh rủi ro, mạo hiểm.


2. Công ty quản lý nợ có thời gian hoạt động xác định và tương đối ngắn


Thời gian hoạt động của công ty quản lý nợ là khoảng thời gian hợp lý, cần thiết đủ để nó tiếp quản, xây dựng và triển khai các hoạt động xử lý nợ quá hạn tồn

đọng theo kế hoạch đã được phê chuẩn. Kết quả cuối cùng là, các khoản nợ quá hạn và tài sản đảm bảo được công ty quản lý nợ tái cơ cấu, chuyển nhượng để thu hồi vốn sau khi đã làm tăng tối đa giá trị. Đến đây, công ty quản lý nợ hoàn thành nhiệm vụ và kết thúc hoạt động.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 88 trang tài liệu này.

Tuỳ theo tình trạng nợ khó đòi, hoàn cảnh và mục tiêu của mỗi quốc gia mà xác định cụ thể thời gian tồn tại phù hợp cho công ty quản lý nợ. Tuy nhiên, do yêu cầu cấp bách giải quyết nhanh chóng tình trạng khủng hoảng của hệ thống tài chính ngân hàng, đảm bảo ổn định trật nên quá trình này không thể diễn ra quá lâu. Thông

thường, công ty quản lý nợ có thời gian hoạt động từ 7-10 năm (như Mỹ, Hàn Quốc…) hoặc có thể dài hơn nhưng tối đa không quá 15 năm. Trong khi, thời gian hoạt động của doanh nghiệp đòi nợ thuê thường không xác định trước. Nó phụ thuộc vào cung cầu của thị trường và ý chí chủ quan của chủ đầu tư.

Một số vấn đề pháp lý về công ty quản lý nợ - 4


3. Công ty quản lý nợ thường được giao những quyền hạn đặc biệt


Xử lý nợ quá hạn và quản lý hiệu quả tài sản đảm bảo là công việc rất phức tạp ngay cả trong những điều kiện bình thường. Vậy mà, công ty quản lý nợ phải tiếp quản một số lượng lớn nợ quá hạn trong hoàn cảnh đặc biệt, nền kinh tế suy thoái, sức mua giảm, lạm phát gia tăng … thì những khó khăn phát sinh là điều không thể tránh khỏi.


Do vậy, để hoàn thành mục tiêu đặt ra trong thời gian hạn chế, pháp luật các nước thường trao cho công ty quản lý nợ những quyền hạn đặc biệt gắn với hoạt

động của nó mà những chủ thể kinh doanh khác không có như:


Quyền mua quyền đòi nợ và sở hữu tài sản không cần có sự chấp thuận của bên vay;

Quyền quyết định bán tài sản không theo các quy định đấu giá thông thường nhưng vẫn bảo đảm công bằng và minh bạch;

Quyền quản lý khoản vay và tài sản đảm bảo: Nội dung cơ bản của quyền này là công ty quản lý nợ được yêu cầu bên vay trả nợ; thực hiện việc giãn nợ, miễn giảm nợ lãi, đầu tư thêm vốn, chuyển vốn thành cổ phần, bổ nhiệm người quản lý, kiểm soát chặt chẽ khách hàng mắc nợ…;

Quyền tuyên bố lệnh hỗn trả nợ ngay cả khi tồ án đã mở thủ tục giải quyết việc phá sản;

Quyền được pháp luật bảo vệ và miễn trừ nghĩa là công ty quản lý nợ và những nhân viên của mình sẽ không bị truy tố tại bất kỳ toà án, dưới bất kỳ hình thức nào vì những tổn thất hoặc mất mát, vì những hành vi phải thi hành hoặc không thi hành nếu họ làm việc một cách trung thực và đúng pháp luật …

Những quyền lực này không bị giới hạn bởi các quy định của hệ thống pháp luật quốc gia, thậm chí trong một số trường hợp nó còn làm thay đổi nhiều nội dung các quy định của pháp luật mỗi nước.


Kinh nghiệm thực tiễn các nước cho thấy: mô hình công ty quản lý nợ không thể thành công hoặc kết quả không khả quan như mục tiêu đã đặt ra nếu như quốc gia đó không có một cơ chế thích hợp cho công ty quản lý nợ, không có khuôn khổ pháp lý tạo cho công ty quản lý nợ những quyền hạn cần thiết, khác với những mô hình thông thường.


Thêm vào đó, cách thức thu hồi nợ mà doanh nghiệp đòi nợ thuê áp dụng khác với công ty quản lý nợ. Doanh nghiệp đòi nợ thuê thường buộc bên vay phải thu xếp tiền để thanh toán nợ hoặc tìm các tài sản của bên vay để xiết nợ. Việc gia hạn trả nợ, cho vay mới để cơ cấu lại nợ rất ít khi được áp dụng hoặc được thực hiện với những điều kiện khắt khe. Do vậy, quyền hạn của doanh nghiệp đòi nợ thuê cũng như nhiều doanh nghiệp khác, thậm chí không có ưu đãi về thuế, về tài chính nếu nhà nước không khuyến khích phát triển.


4. Công ty quản lý nợ chịu những cơ chế giám sát và kiểm soát chặt chẽ


Rất khó đảm bảo chắc chắn rằng trong quá trình hoạt động, công ty quản lý nợ và các nhân viên của nó không lạm dụng những quyền hạn được trao để sử dụng vào mục đích tư lợi cá nhân. Bởi vậy, ngoài những quyền hạn và kỹ năng đặc biệt, pháp luật của các nước đều quy định các biện pháp quản lý, kiểm soát và giám sát rất chặt chẽ nhằm đảm bảo cho công ty quản lý nợ hoạt động trong sự công khai, minh bạch, đồng thời đảm bảo an toàn cho các tài sản của quốc gia.


Trong khi đó, không có quy định riêng về việc kiểm tra, kiểm soát đối với hoạt động của doanh nghiệp đòi nợ thuê cũng như đối với các nhân viên của nó.


Ngoài ra, công ty quản lý nợ còn đặc biệt ở chỗ nó được ra đời trong những

điều kiện hoàn cảnh hết sức khó khăn, đó là tình trạng nợ quá hạn khó đòi trong hệ thống ngân hàng tăng cao, khả năng thanh toán của các ngân hàng thấp, thậm chí nguy cơ khủng hoảng kinh tế, bất ổn xã hội có thể bùng phát bất cứ lúc nào.

4. Vai trò của Công ty Quản lý nợ

Công ty quản lý nợ đóng vai trò là công cụ giúp giải quyết hữu hiệu các khoản vay không thu hồi được, đưa ra những giải pháp xử lý hiệu quả các tài sản

đảm bảo; giúp cho các ngân hàng có điều kiện đa dạng hoá các nghiệp vụ hoạt động, mở rộng cho vay, tăng cường chuyển dịch cơ cấu và nâng cao chất lượng đầu tư, khắc phục những khó khăn về tài chính, củng cố tính thanh khoản, cải thiện khả năng hoàn vốn và khôi phục mối quan hệ với các đối tác kinh doanh.


Vai trò của công ty quản lý nợ được biểu hiện cụ thể như sau:


Công ty quản lý nợ là công cụ thích hợp giúp các ngân hàng xử lý nợ quá hạn tồn

đọng, làm sạch bảng cân đối tài sản bằng cách mua lại các khoản nợ này trên cơ sở giá thị trường, làm lành mạnh hoá tình hình tài chính của các ngân hàng;

Công ty quản lý nợ sử dụng các biện pháp và kỹ năng đặc biệt để quản lý và khai thác hiệu quả các khoản nợ quá hạn như cơ cấu, khôi phục lại các khoản nợ hoặc chuyển chúng thành vốn góp, nhanh chóng chuyển các khoản nợ quá hạn thành tiền mặt, rút ngắn thời gian luân chuyển vốn.

Công ty quản lý nợ sử dụng các biện pháp và kỹ năng đặc biệt để quản lý, khai thác hiệu quả và làm gia tăng giá trị của các tài sản cầm cố, thế chấp gắn liền với khoản nợ quá hạn để dễ dàng chuyển nhượng;

Công ty quản lý nợ bằng các biện pháp và kỹ năng đặc biệt để tối đa hoá lợi nhuận, giảm thiểu rủi ro, tổn thất và các chi phí phát sinh khác đối với các khoản nợ quá hạn.


Ngoài ra, công ty quản lý nợ là yếu tố quan trọng, không thể thiếu trong các chương trình quốc gia về cơ cấu lại hệ thống ngân hàng, góp phần làm lành mạnh hoá hệ thống tài chính và khôi phục nền kinh tế quốc dân.


Chương II. công ty quản lý nợ của việt nam‌‌

1. Bối cảnh ra đời Công ty quản lý nợ ở Việt nam


1.3 Tình hình nợ quá hạn tồn đọng tại Việt nam


Nợ quá hạn là khoản nợ mà bên nợ đang hoạt động, khoản nợ có khả năng thu hồi, nhưng gặp khó khăn tạm thời về tình hình sản xuất kinh doanh chưa trả được nợ gốc hoặc lãi hoặc cả gốc và lãi khi đến hạn.(1)

Nợ xấu bao gồm những khoản nợ quá hạn không còn đối tượng để thu, nợ không có bảo đảm, nợ có bảo đảm nhưng còn vướng về thủ tục pháp lý hoặc những khoản nợ mà bên vay chây ỳ không chịu trả.


Nợ xấu của các ngân hàng Việt nam được biểu hiện như sau:

Nợ quá hạn do một số hợp tác xã tín dụng trước đây bị giải thể nay tiếp tục khắc phục, bổ sung thêm vốn cổ đông để thành lập ngân hàng thương mại cổ phần, số này không lớn;

Nợ quá hạn do NHNN Việt nam và Bộ Tài chính xử lý cho khách hàng hoặc tạm khoanh do những nguyên nhân bất khả kháng theo chỉ đạo của Chính phủ. Số nợ này hoặc đã cho khoanh nhưng hạch toán ở tài khoản nợ phải thu (đã đưa ra khỏi dư nợ tín dụng nhưng vẫn là tài sản có của ngân hàng) hoặc đã xét cho tạm khoanh nhưng vẫn hạch toán ở tài khoản nợ quá hạn (trong dư nợ tín dụng của ngân hàng).

Những khoản nợ quá hạn trên 360 ngày và những khoản vay trong hạn nhưng

đã xác định không thể thu hồi vì người vay chết, mất tích, doanh nghiệp phá sản, giải thể, bị khách hàng lừa đảo ...

Nợ quá hạn do cho vay bắt buộc trong trường hợp ngân hàng phải trả thay khách hàng các khoản bảo lãnh L/C nhập hàng trả chậm.


Tình trạng nợ quá hạn tồn đọng là một trong những yếu tố rủi ro phát sinh từ hoạt động ngân hàng. Sẽ không có gì đáng bàn nếu số nợ quá hạn này nằm

(1) Khoản 2 Điều 5 Chương I Quy chế mua bán nợ của các tổ chức tín dụng ban hành kèm theo Quyết định số 140/QĐ-NHNN14 ngày 19/4/1999 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt nam

trong ngưỡng an toàn cho phép. Song ở Việt nam, trong vài năm gần đây, vấn đề nợ quá hạn tồn đọng đã trở nên không bình thường và được các quan chức NHNN Việt nam đánh giá là “rất đáng lo ngại” (1). Việc xử lý có hiệu quả tài sản thế chấp, nhanh chóng giảm tỷ lệ nợ khó đòi, nợ quá hạn trên tổng dư nợ tổ chức tín dụng là vấn đề cấp bách, đòi hỏi Nhà nước cùng các ngân hàng phải có biện pháp phối hợp xử lý để làm lành mạnh hoá hoạt động ngân hàng.


Hiện nay, các số liệu chính xác liên quan đến vấn đề nợ quá hạn tồn đọng

được công bố từ các cơ quan của Chính phủ như NHNN Việt nam, Bộ Tài Chính …

đều không thống nhất, chính bởi sự “nhạy cảm” của số liệu này. Thậm chí trên các phương tiện thông tin đại chúng, số liệu về nợ quá hạn tồn đọng tính tới thời điểm 31/12/2000 cũng được công bố không giống nhau như 20.000 tỷ đồng (Tạp chí chứng khoán ngày 21/01/2002), 22.000 tỷ đồng (Báo Đầu tư ngày 18/10/2002),

27.400 tỷ đồng (Báo Đầu tư ngày 25/3/2002) hoặc 1 tỷ Đôla Mỹ (Tạp chí chứng khoán số 11 tháng11/2002). Tuy nhiên, chúng đều thống nhất tỷ lệ nợ quá hạn ở Việt nam chiếm khoảng 12% trên tổng số dư nợ. Cho dù, con số nào là chính xác thì nợ quá hạn ở Việt nam vẫn được đánh giá là “rất cao, cao gấp bội so với các nước trong khu vực”(2).

Số nợ quá hạn khổng lồ đó được phân loại như sau:


Nhóm nợ có tài sản bảo đảm chiếm 40% tổng số nợ xấu, được phân làm hai loại: loại ngân hàng đã thu giữ tài sản và loại ngân hàng chưa thu giữ được tài sản (do tài sản liên quan đến các vụ án đang trong quá trình giải quyết hoặc

đã giải quyết xong nhưng tòa án chưa giao cho ngân hàng xử lý hoặc tài sản

đó chưa đủ thủ tục pháp lý như giấy tờ sở hữu không đảm bảo, hợp đồng cầm cố thế chấp không được công chứng, chứng thực bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền …).

Nhóm nợ không có tài sản bảo đảm và bên vay không còn hoạt động chiếm gần 20% tổng số nợ xấu. Nhóm nợ này chủ yếu thuộc diện bị thiên tai, doanh nghiệp đã giải thể, phá sản hoặc không còn hoạt động…

(1) Trần Minh Tuấn-Phó Thống đốc NHNN Việt nam: Xử lý tài sản thế chấp và giảm tỷ lệ nợ đọng là một nhiệm vụ trọng tâm của toàn ngành ngân hàng, Tạp chí ngân hàng, số chuyên đề, tháng 12/1998, tr.1

(2) Vũ Minh Quang: Cơ cấu lại hệ thống ngân hàng thương mại Việt nam, Tạp chí chứng khoán số 11 tháng11/2002, tr.33

Nhóm nợ không có tài sản đảm bảo và bên vay đang hoạt động chiếm khoảng 40% tổng số nợ xấu. Phần lớn các khách hàng thuộc nhóm này là các doanh nghiệp Nhà nước hiệu quả sử dụng vốn rất thấp, chưa được cơ cấu lại .

Vì vậy, việc xử lý sẽ rất phức tạp. Vấn đề sẽ còn trở nên phức tạp hơn khi Chính phủ chủ trương chuyển các doanh nghiệp Nhà nước thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, nghĩa là chủ sở hữu chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty. Trong khi thực tế, nguồn vốn chủ sở hữu tại các doanh nghiệp Nhà nước (bao gồm cả quỹ phát triển kinh doanh) chỉ chiếm 31,3% tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp, 67% tổng giá trị tài sản là nguồn vốn vay hoặc vốn chiếm dụng của các đối tác khác, phần còn lại 1,7% là các nguồn kinh phí khác. (Số liệu tổng kiểm kê doanh nghiệp Nhà nước thời

điểm 0’ ngày 01/01/2000).

Tuy nhiên, theo các chuyên gia đánh giá nếu áp dụng các chuẩn mực quốc tế trong phân loại nợ quá hạn thì tỷ lệ nợ quá hạn của Việt nam có thể lên đến trên 20% và tập trung chủ yếu vào các nhóm không có tài sản đảm bảo mà bên vay vẫn đang hoạt động. Trong tổng số nợ quá hạn không còn khả năng thu hồi của các ngân hàng quốc doanh thì trên 60% là nợ không trả được từ các doanh nghiệp nhà nước (1).

Qua phân tích từng nhóm nợ, chúng ta thấy vấn đề nợ quá hạn hiện nay không chỉ phức tạp ở mặt định lượng mà còn ở mặt định tính. Xét về cơ cấu, các khoản nợ xấu chỉ tập trung chủ yếu là các ngân hàng trong nước (quốc doanh và ngoài quốc doanh). Các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh nợ quá hạn tồn đọng không đáng kể, khiến tỷ lệ nợ quá hạn của các ngân hàng trong nước cao gấp nhiều lần mức độ an toàn cho phép.


Ngoài ra, qua thống kê cho thấy, khá nhiều đối tượng vay vốn không trả được nợ cho ngân hàng có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự, gây thiệt hại cho hệ thống ngân hàng hàng trăm tỷ đồng, điển hình như vụ TAMEXCO, EPCO-Minh Phụng (trên 7.000 tỷ đồng), vụ Công ty Đầu tư và Phát triển Kinh tế Sóc Trăng (104 tỷ

đồng), vụ Công ty Trách nhiệm hữu hạn Quyết Thắng - TP Hồ Chí


(1) Thục Đoan: Trái tim cần được giải phẫu, Thời báo kinh tế Sài gòn số 47-2001 ngày 15/11/2001, tr.13

Minh (139 tỷ đồng), vụ Công ty Trách nhiệm hữu hạn Ngọc Thảo - TP Hồ Chí Minh

(trên 200 tỷ đồng)…


Trong khi, vốn điều lệ của các ngân hàng của Việt nam khá khiêm tốn so với các ngân hàng trong khu vực và so với chính các khoản nợ tồn đọng có nguy cơ tổn thất như Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt nam 2.300 tỷ đồng Việt nam (VND); Ngân hàng Ngoại thương Việt nam 1.800 tỷ VND, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam 1.800 tỷ VND, Ngân hàng Công thương Việt nam 1.800 tỷ

đồng và các ngân hàng thương mại cổ phần đều có số vốn điều lệ dưới 200 tỷ VND.


Phần lớn các ngân hàng, kể cả ngân hàng thương mại quốc doanh khẳng định tài sản của họ không bị mất hay thất thoát. Bởi, hiện nay họ đang quản lý hàng triệu m2 đất, hàng ngàn căn hộ do khách hàng vay đem thế chấp. Nhưng thực chất, tài sản

đảm bảo không đảm bảo thủ tục pháp lý nên không thể phát mại hoặc giá trị tài sản

đảm bảo khi phát mại thấp hơn nhiều số với nợ vay. Như vậy, trong chừng mực nào

Xem tất cả 88 trang.

Ngày đăng: 20/01/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí