Đánh Giá Thực Trạng Xuất Khẩu Thủ Công Mỹ Nghệ Sang Thị Trường Nhật Bản

* Xuất khẩu sang Nhật Bản


2.1.3.1 Về kim ngạch xuất khẩu


Thị trường Nhật Bản là một trong nhưng thị trường lớn nhất của Nam trong xuất khẩu thủ công mỹ nghệ. Như đã phân tích ở trên, thị trường Nhật Bản là một thị trường tiêu thụ hàng thủ công mỹ nghệ lớn ( hàng năm nhập khẩu khoảng 2 tỷ USD). Đây thực sự là điều hấp dẫn đối với các doanh nghiệp xuất khẩu thủ công mỹ nghệ của Việt Nam. Với thị trường Nhật Bản, ta đã xuất khẩu sang các mặt hàng như mây tre đan, tranh dân gian Đông Hồ, sơn mài, đồ khảm trai, gốm sứ và gỗ mỹ nghệ…

Trải qua những năm khủng hoảng do sự biến động về chính trị- xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu, sự khó khăn về thị trường tiêu thụ, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam đã được khôi phục, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Nhà nước ,tư nhân, với sự hỗ trợ của Nhà nước , đã tìm kiếm và giới thiệu sản phẩm ở nhiều thị trường mới. Từ thời gian này trở đi, hàng thủ công mỹ nghệ mới tiếp cận được thị trường Nhật Bản.

Bảng 4


Kim ngạch xuất khẩu thủ công mỹ nghệ của Việt Nam vào Nhật Bản

Đơn vị : triu USD


Năm

KNXK sang Nhật Bản

Tăng giảm tuyệt đối

Tăng giảm

tương đối(%)

KNXK

TCMN cả nước

Tỷ trọng(%)

1994

1,5

-


25

0.06

1995

7,5

6

50

31.5

23.8

1996

17,5

10

23.33

90

19

1997

20

2.5

11.4

121

16.5

1998

18

-2

-10

111

16.2

1999

24,4

6.4

35.5

200

12.2

2000

25

0.6

2.46

237

10.5

2001

25,16

0.16

00.64

235

10.7

2002

36,8

11.64

46.26

250

14.72

2003

50

13.2

35.86

332

15.06

2004

55

5

10

450

12.22

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.

Một số giải pháp hỗ trợ và thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ ARTEXPORT sang thị trường Nhật Bản - 6

Năm 1994, kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này rất nhỏ bé, khoảng 1,5 triu USD, không đóng vai trò gì đáng kể trong tổng kim ngạch xuất khẩu thủ công mỹ nghệ của Việt Nam năm đó ( 0.06%) . Nhưng đây thực sự là một kết quả đáng khích lệ vì ngành thủ công mỹ nghệ Việt Nam mới thoát khỏi thời gian khủng hoảng, các doanh nghiệp Việt Nam cũng chưa có hiểu biết gì nhiều về thị trường Nhật Bản cũng như đặc điểm của thị trường này.

Sang năm sau năm 1995, kim ngạch xuất khẩu thủ công mỹ nghệ vào Nhật Bản đã đạt tốc độ tăng trưởng khá cao 150% gấp 5 lần, đạt giá trị 7,5 triu USD tăng 6 triu USD, kim ngạch xuất khẩu như vậy chưa lớn song xét về tốc độ tăng trưởng thì khá cao. Lúc này tỷ trọng hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản còn thấp nhưng trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam thì thị trường Nhật Bản đã chiếm 23.8 % . Sở dĩ có mức tăng trưởng kỷ lục như vậy là do Việt Nam đã đi từ con số không đi lên. Hơn nưa, quan hệ Việt Nam – Nhật Bản ngày càng tiến triển tốt đẹp.

Năm 1996, kim ngạch đạt 17.5 triu USD với tốc độ tăng trưởng là 23.33 %. Sang năm 1997, 1998, do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, nhiều thị trường nhập khẩu của Việt Nam bị giảm sút nhưng thị trường Nhật Bản vẫn khá ổn định, vì mặt hàng thủ công mỹ nghệ vẫn là một trong những mặt hàng cần thiết cho sinh hoạt của người Nhật Bản, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng cũng giảm tương đối so với các năm trước. Năm 1997,tốc độ tăng trưởng là 11,4 % nhưng đến năm 1998 giảm 10% so với năm 1997, kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt 18 triu USD . Kết quả giảm sút này là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính làm cho giá cả của hàng Việt Nam cao hơn do đồng tiền của các nước khác chịu khủng hoảng mất giá, đồng thời sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Việt Nam bị cạnh tranh bởi hàng thủ công mỹ nghệ của các nước xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ như Trung Quốc, Thái lan…

Năm 1999, tình hình đã được cải thiện sáng sủa hơn. Kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam đã tăng lên đáng kể. Kim ngạch xuất khẩu thủ công mỹ nghệ vào thị trường Nhật Bản là 24.4 triu USD tăng 35.5 % so với năm 1998, chiếm 12.2 % tổng kim ngạch xuất khẩu thủ công mỹ nghệ của cả nước. Năm 2000 đánh dấu một thời kỳ phục hưng của ngành thủ công mỹ nghệ Việt Nam . Xuất khẩu sang Nhật Bản cũng tăng nhưng tốc độ không cao. Sang năm 2002, kim ngạch xuất khẩu thủ công mỹ nghệ sang Nhật Bản tăng vọt 36.8 triu USD ,tăng 46.26 % so với năm 2001. Trong năm 2002 phải kể đến những thành công trong việc tiếp cận thị trường Nhật Bản, đó là việc phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam(VCCI) cùng các cơ quan hữu quan và doanh nghịêp đã

xây dựng sàn giao dịch điện tử để trưng bày, giới thiệu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam lên mạng. Sàn giao dịch này là đầu mối cung cấp thông tin về thị trường , giới thiệu sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Việt Nam, về các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh mặt hàng này, đồng thời hỗ trợ các doanh nghiệp trong giao dịch trực tuyến( như đàm phán , ký kết hợp đồng…). Năm 2003, thương mại điện tử với những lợi ích của nó đã được khai thác mạnh mẽ trong xuất khẩu của ngành thủ công mỹ nghệ , các doanh nghiệp kí được nhiều đơn hàng mới với đối tác Nhật Bản mà tốn ít chi phí giao dịch hơn, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản tiếp tục gia tăng với 50 triu USD, tăng 35.86% so với năm 2002. Đây là một kết quả rất đáng khích lệ của ngành thủ công mỹ nghệ Việt Nam . Cũng phải nói đến sự quan tâm của Nhà nước trong vấn đề hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia tiếp cận thị trường Nhật Bản đồng thời nỗ lực phát triển mối quan hệ song phương giữa 2 quốc gia. Cũng nhờ những nỗ lực đó của Nhà nước và sự cố gắng của các doanh nghiệp mà trong năm 2004, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam sang Nhật Bản đạt 55 triu USD, chiếm 12% kim ngạch xuất khẩu thủ công mỹ nghệ của cả nước.

Kết quả trên tuy chưa phải là rất cao nhưng trong khi Nhật Bản đang gặp nhiều khó khăn mà Việt Nam vẫn giữ được mức tăng trưởng qua các năm cũng là kết quả rất đáng khích lệ.

2.1.3.2 Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu sang Nhật Bản.


Nhật Bản có nhu cầu rất lớn đối với hàng thủ công mỹ nghệ. Các mặt hàng được phân thành loại cao cấp là các loại nhập từ Mỹ và các nước châu Âu, loại giá rẻ được nhập từ các nước châu á như Trung Quốc, Đài Loan và các nước ASEAN.

Mặt hàng Nhật Bản nhập khẩu từ Việt Nam nhiều và thường xuyên nhất là đồ mỹ nghệ và gốm sứ, ngoài ra khách hàng Nhật Bản cũng rất ưa chuộng các mặt hàng được làm từ cói.

Bảng 5


Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu sang Nhật Bản


Đơn vị: triu USD


Mặt hàng

2001

2002

2003

2004

Gỗ mỹ nghệ

15

20,7

21

18

Gốm sứ

4

4.5

5

5

Mây tre đan

3

2,5

4

4,3

Thêu ren

15

10

17,5

20

Thảm các loại

2

3

1

3


Sản phẩm được làm từ gỗ được đánh giá là mặt hàng có lợi thế nhất của Việt Nam trong xuất khẩu sang Nhật Bản. Người Nhật Bản có nhu cầu sử dụng gỗ rất lớn. Đây là loại sản phẩm không phải qua kiểm dịch và kiểm tra vệ sinh, các tiêu chuẩn về môi trường cũng không khắt khe như Châu Âu và Mỹ. Trong năm 2001, Việt Nam đã xuất khẩu 15 triệu USD gỗ mỹ nghệ, các mặt hàng gỗ được khắc trạm khảm dùng trang trí trong nhà, sử dụng trong bếp...được đánh giá rất gần gũi với thị hiếu người Nhật Bản, chính vì vậy mà sang năm 2002, kim ngạch đã lên tới 20.7 triệu USD, chiếm 40% tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ cả nước ( 52 triệu USD ), xuất khẩu gỗ mỹ nghệ đều tăng qua các năm, mức tăng trưởng là 21.28%. Tuy vậy, gỗ mỹ nghệ Việt Nam cũng chỉ chiếm thị phần nhỏ trên

thị trường Nhật Bản là 7.3%,trong khi đó, các quốc gia Châu á xuất khẩu gỗ sang Nhật Bản như Trung Quốc chiếm 28.7%, Thái Lan 20.3%, Malaysia 13.8%, Indonesia 11.8%. Vì vậy, ngành cần có các biện pháp thúc đẩy sản xuất và xâm nhập để mở rộng thị trường Nhật Bản hơn nữa.

Bên cạnh các sản phẩm gỗ mỹ nghệ các thị trường nội thất và sản phẩm bằng mây tre cũng được người Nhật Bản ưa dùng, chủ yếu là đĩa, chậu, ghế… với công nghệ sử lý nguyên liệu làm cho màu sắc đẹp, bóng, không mốc mọt, cùng với sự tăng cường phối hợp các nhiên liệu khác như kim

loại màu để tăng được vẻ đẹp và tính hiện đại của sản phẩm, sản phẩm từ mây tre được khách hàng Nhật Bản ưa dùng. Tuy vậy, sản phẩm này đã gặp phải sự khó khăn lớn trong việc cạnh tranh với các sản phẩm từ Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia với công nghệ và kỹ thuật cao, sự đa dạng…Chính vì vậy kim ngạch xuất khẩu sang Nhật Bản mới chỉ đạt 3 triệu USD vào năm 2001, kim ngạch tăng giảm không ổn định, năm 2002 xuất khẩu được 2.5 triệu USD và sang năm 2003 là 1.4 triệu USD.

Tuy nhiên trong năm 2004 vừa qua ngành thủ công mỹ nghệ đã đưa ra nhiều mặt hàng với kiểu dáng và mẫu mã đặc biệt như giỏ xách tay hình quả bí, bàn ghế …thu hút sự quan tâm của các nhà nhập khẩu Nhật Bản cùng với sự hỗ trợ của nhà nước trên nhiều mặt làm kim ngạch xuất khẩu tăng lên 4.5 triệu USD.

Bên cạnh mặt hàng gỗ và mây tre đan gốm sứ cũng được đánh giá là mặt hàng có tiềm năng xuất khẩu sang Nhật Bản. Nhập khẩu đồ gốm sứ vào Nhật Bản trong năm 2004 tăng mạnh so với năm 2003 cả về số lượng và kim ngạch nhập khẩu, đồ sứ là 16.484 tấn, gốm là 45.800 tấn nhưng nhập chủ yếu từ Trung Quốc, so với năm 2000, năm 2004 nhập khẩu đồ gốm tăng 160% tính theo lượng và 150% tính theo kim ngạch, nhập khẩu đồ gốm sứ từ Châu á tăng nhanh do mức giá rẻ và

công nghệ sản xuất được chuyển giao từ Nhật Bản sang cho phép các nhà sản xuất Châu á cung cấp

sản phẩm gần gũi hơn với người Nhật Bản. Đây là vấn đề mà ngành thủ công mỹ nghệ của Việt Nam cần lưu ý khi đưa ra các giải pháp để thúc đẩy hàng thủ công mỹ nghệ vào Nhật Bản.. Tuy nhiên thị phần của Việt Nam còn khá khiêm tốn, mới chỉ đạt 5 triu USD/ năm mặc dù thuế nhập khẩu rất

thấp. Đây là mặt hàng có nhiều triển vọng nếu nhà sản xuất chú ý đến khâu tạo hình và đặc điểm hệ thống phân phối của thị trường Nhật Bản.

* Xuất khẩu tại chỗ


Sau những thiên tai và bệnh tật xảy ra trong khu vực Châu á, Việt Nam được đánh giá là điểm đến an toàn đối với khách du lịch. Hiện nay khách du lịch Nhật Bản vào Việt Nam ngay một nhiều. Hiện các cửa hàng bán đồ thủ công mỹ nghệ đón tiếp rất nhiều khách Nhật Bản,chủ yếu là tầng lớp thanh niên, họ ưa chuộng những mặt hàng mới mẻ mang dáng vẻ truyền thống nhưng độc đáo của Việt Nam. Mua sắm là mục đích thứ 2 của người Nhật Bản khi họ đến Việt Nam , trên cả mục đích tham quan và chỉ đứng sau mục đích thưởng thức ẩm thực. Trong tháng 4/ 2005 vừa qua, Tổng cục trưởng tổng cục du lịch Việt Nam và Bộ Trưởng Giao Thông và Lãnh thổ Nhật Bản Kazuo Kitagawa đã ký văn bản thoả thuận về hợp tác phát triển du lịch giữa 2 nước, theo đó hai nước sẽ thảo luận kế hoạch hợp tác cụ thể trong lĩnh vực du lịch như chính sách hỗ trợ của Nhà nước, hợp tác nghiên cứu thị trường và đào tạo cán bộ quản lý, hướng dẫn viên du lịch. Trong năm 2004 vừa qua, khách du lịch Nhật Bản ra nước ngoài là 16 triệu lượt người,trong đó khách vào Việt Nam là 700 nghìn lượt người. Như vậy, nếu mỗi khách du lịch sắm cho mình một sản phẩm thủ công mỹ nghệ thì kim ngạch xuất khẩu thủ công mỹ nghệ của Việt Nam sẽ tăng lên đáng kể. Việt Nam cần có nhiều chính sách phát triển thị trường du lịch, để từ đó có thể tăng kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.


2.1.3.3 Đánh giá thực trạng xuất khẩu thủ công mỹ nghệ sang thị trường Nhật Bản


Thuận lợi

Trong bối cảnh chung khó khăn như vậy, đồng thời với thị trường khắt khe,khó tính như Nhật Bản thì kết quả trên là điều đáng khích lệ, sỏ dĩ có được thành tựu trên là do Việt Nam đang có được những điều kiện hết sức thuận lợi cho xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ :

* Lợi thế về nguồn nhân lực: nguồn nhân lực cho ngành thủ công mỹ nghệ bao gồm những nghệ nhân, những người thợ thủ công, chủ cơ sơ sản xuất kinh doanh. Những nghệ nhân có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc truyền nghề, dạy nghề, đòng thời là những người sáng tạo ra những

sản phẩm độc đáo mang tính truyền thống, hiên nay ở các làng nghề Việt Nam , vẫn còn có rất nhiều nghệ nhân có tâm huyết với nghề, muốn giữ gìn và phát triển nghề. Bên cạnh đó còn có một lưc lượng lao đọng dồi dào,cơ cấu lao động trẻ, có khả năng thích ứng với nền kinh tế thị trường. Do đặc điểm sản xuất của nghề này là sử dụng lao động thủ công là chủ yếu , nơi sản xuất cũng chính là nơi ở của người lao động nên bản thân nó có khả năng thu hút nhiều loại lao động, từ lao động thời vụ nông nhàn đến lao động trên hay dưới độ tuổi , trẻ em, tham gia dưới hình thức học việc hay giúp việc. Lực lượng lao động nay chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số lao động làm nghề

* Tính phong phú của sản phẩm thể hiện trên 2 khía cạnh:


-Văn hoá: Sản phẩm thủ công mỹ nghệ mang đậm bản sắc văn hoá Việt Nam . Từ những con rồng trạm trổ ở các đình chùa hoa văn trên các trống đồng, màu men, hoạ tiết trên các đồ gốm sứ, tất cả đều mang vóc dáng dân tộc, quê hương và chứa đựng trongnó những ảnh hưởng văn hoá tinh thần quan niệm nhân văn, tín ngưỡng tôn giáo của dân tộc. Việt Nam nghìn năm văn hiến và tầng lớp nghệ nhân tay nghề cao đã sáng tạo những sản phẩm thủ công mỹ nghệ tuyệt vời mà Nhật Bản không thể sản xuất, đây chính là chiếc cầu nối giao lưu văn hoá giữa 2 nước. Bên cạnh đó, những nét riêng về phong tục của mỗi địa phương, cá địa danh được thể hiên trên sản phẩm thủ công mỹ nghệ đều làm tăng giá trị cho sản phẩm, gây cho khách hàng một sự thích thú, như một sự khám phá khi thấy sản phẩm.

- Nguyên liệu: Mỗi năm, Nhà nước ta đều đưa những sản phẩm thủ công mỹ nghệ mới được xuất khẩu lần đầu vào danh sách khen thưởng. Sự phong phú của nguyên liệu sử dụng đã tạo nên các sản phẩm độc đáo. Từ mây, tre, song, nứa người ta có thể dùng cả rơm phơi khô, gáo dừa, xơ dừa, dây chuối, cói đay thâm chí cả vỏ trứng tạo nên các sản phẩm độc đáo như rương đựng đồ hình quả bí ngô với màu sắc bí xanh và bí chín, dép thay vì đan cói đã quá cũ giờ đan bằng dây chuối và lục bình với màu vàng ngà của bẹ chuối, màu mốc tự nhiên của thân chuối, hay mới đây doanh nghiệp

S.V.C tại Yên Hoà đã chế tác thành công chiếc bình lơn nhất Việt Nam được làm băng gáo dừa mang tên Huyền Sử Đời Hùng với 5000 chi tiết hoa văn, phù điêu trang trí thể hiện một cách sống động những sự tích, hình tượng như: Lạc Long Quân- Âu cơ, Tiên Dung- Chử Đồng Tử, trống đồng Đông Sơn, nhà rồng, cồng chiêng…cho thấy khả năng sang tạo mẫu mã của nghệ nhân Việt Nam tạo nên sự độc đáo để quảng bá với thế giới về hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam .

* Các chính sách vĩ mô của nhà nước:

- Chính sách biện pháp khuyến khích, ưu đãi được quy định trong nghị định 51/1999NĐ-CP : các ngành nghề truyền thống được ưu tiên phát triển và được hưởng ưu đãi gồm có : khảm trai, sơn mài, khắc đá, mây tre, dệt thảm, lục tơ tằm, gốm sứ, thêu ren thủ công, đúc và gò đồng; ưu đãi đầu tư được hưởng khi đầu tư vào 10 ngành nghề thủ công truyền thống : miễn giảm tiến sử dụng đất, tiền thuế đất,miễn thuế nhập khẩu với máy móc thiết bị mà trong nước chưa sản xuất được hoặc chưa đáp ứng được yêu cấu chất lượng .

- Chính sách đào tạo thợ thủ công truyền thống.


- Chương trình cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn.


- Chương trình khuyến nông về ngành nghề nông thôn.


- Hỗ trợ sản xuất , phát triển ngành nghề cho đối tượng đói nghèo.


Bên cạnh đó Nhà nước đang sửa đổi bổ sung nhiều quy chế chính sách khác như các chính sách về thị trường, vôn đầu tư tín dụng, chính sách đối với nghệ nhân, chính sách đối với phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trong ngành nghề truyên thống…

* Các hoạt động xúc tiến thương mại.


Nhà nước đã có nhiều hoạt động hỗ trợ các doanh nghiệp trong vấn đề tiếp cạn thị trường Nhật Bản : mở các showroom hàng thủ công mỹ nghệ tại nhiều thành phố của Nhật Bản , hỗ trợ kinh phí cho các doanh nghiệp khi tham gia các hội chợ quốc tế tại nước ngoài, tổ chức các hội chợ riêng về hàng thủ công mỹ nghệ tại Việt Nam , đon tiếp các đoàn khách du lịch Nhật Bản và tổ chức các buổi giao lưu nhằm tạo cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam tim kiêm đối tác… Điển hình trong năm nay từ ngày 23-36/6/2005, Thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản sẽ phối hợp với văn phòng II bộ thương mại tổ chức đưa đoàn doanh nghiệp Nhật Bản về TP.HCM để tìm kiếm đối tác đầu tư tại Việt Nam

Khó khăn và hạn chế

- Theo cục xúc tiến thương mại( Bộ Thương mại), khách hàng Nhật Bản đánh giá hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam yếu nhất là khâu thiết kế. Các công ty xuất khẩu của Việt Nam ít quan tâm đến cải tiến chất lượng sản phẩm , chỉ cạnh tranh với nhau bằng cách hạ giá. Do đó, mẫu mã của các công ty gần như giống nhau và chất lượng ngày càng giảm sút. Trong khi muốn bán được nhiều hàng thì tỷ lệ chế tác thủ công và mẫu mã phải chiếm phần nhiều. Không những thế,qua nhân

xét của JETRO (Cơ quan xúc tiên thương mại của Nhật Bản ) người Nhật cho rằng hàng Việt Nam chỉ ở mức trung bình trở xuống, không có mẫu mã riêng, chỉ làm theo đơn đặt hàng là chính.

- Khả năng tiếp cận thị trường của Việt Nam còn yếu. Chúng ta quen với phương châm sản xuất nhanh- nhiều- tốt- rẻ, nhưng làm thế nào bán được hàng nhanh và b án được nhiều hàng thì đó là vấn đề mới mẻ. Hệ thống thị trường thiếu ổn định, nhiều người chưa biết bán sản phẩm cho ai, hàng hoá bị tồn đọng, luân chuyển chậm. ở các vùng nông thôn, nhân lực tuy nhiêu nhưng trình độ văn hoá lại chưa cao,chưa có khả năng tiếp cận để có thể năm bắt được xu thế của sản phẩm mới, không hiểu biết thị hiếu ngườ tiêu dùng.

- Bên cạnh đó là tình trạng các doanh nghiệp tranh mua tranh bán theo kiểu “được cá bỏ tôm” khi hàng đang có giá. Kiểu cạnh tranh thiếu lành mạnh làm xấu hình ảnh của doanh nghiệp Việt Nam trong năt đối tác nước ngoài, tự mình lám suy yếu sức cạnh tranh trước các đối thủ của nước ngoài. Doanh nghiệp Việt Nam chưa gắn kết thành một mối mãnh mẽ trong quan hệ với cá đối tác nước ngoài, mọi quan hệ đều mới ở mức riêng rẽ, mạnh ai nấy được . Đã vậy còn xuất hiện những hàng nhái kém phẩm chất làm ảnh hưởng đến uy tín và lợi ích của các cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống.

- Các cơ sỏ sản xuất nước ta đều gặp khó khăn về mặt băng sản xuất , bãi tập kết nguyên liệu, các cửa hàng giao bán sản phẩm ,hệ thống công cụ còn quá lạc hậu, tính chuyên nghiệp trong cung ứng sản xuất còn thấp…chính vì vậy nhiều khi ta không thể nhân những đơn hàng quá lớn mà bên đối tác yêu cầu.

- Hạn chế về mặt thể chế: bên phía Nhật Bản tuy mức thuế được xem là thấp nhất thế giới song hàng hoá nhập khẩu vào Nhật Bản phải đáp ứng một phạm vi rộng lớn và phức tạp về tiêu chuẩn, thủ tục xác nhận và các hàng rào kỹ thuật không chính thức như quy định về vệ sinh và y tế làm cho quy trình nhập khẩu bị kéo dài và gặp nhiều khó khăn..

2.2 Thực trạng về sản xuất và xuất khẩu TCMN của công ty ARTEXPORT.


2.2.1 Tổng quan về công ty


Tổng công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ, tên giao dịch đối ngoại ARTEXPORT đựơc thành lập theo quýêt định số 617/BNgT-TCCB ngày 23/12/1964 của Bộ Ngoại Thương.Sau khi sát nhập 2 Bộ Ngoại Thương và Bộ Nội thương thành lập Bộ thương mại vàDu lịch nay đổi thành Bộ thương mại, công ty được thành lập theo quyết định số334/TM-TCCB ngày31/3/1993 của bộ Thương

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 05/10/2022