Tính Chất Và Đặc Điểm Của Cuộc Khủng Hoảng


Rock, ngân hàng lớn thứ năm tại Anh, sau khi mất thanh khoản nghiêm trọng do thua lỗ từ cho vay thế chấp bất động sản, đã phải cầu cứu ngân hàng trung ương Anh. Nhà đầu tư ùn ùn kéo đến rút tiền khiến Chính phủ buộc phải tiếp quản tập đoàn ngân hàng này; và đến ngày 17/02/2008, Northern Rock chính thức bị quốc hữu hóa. Sự kiện Country Financial và Northern Rock là dấu hiệu báo trước cơn bão sắp đổ xuống thị trường tài chính toàn cầu cũng như làn sóng sát nhập, phá sản, và bị chính phủ tiếp quản của các định chế tài chính.

Đến ngày 28/02/2008 Ngân hàng DZ Bank của Đức được đưa vào danh sách các nạn nhân của cuộc khủng hoảng cho vay dưới chuẩn với tổng giá trị tài sản mất giá là 1,36 tỷ Euro. Chưa đầy một tháng sau, chính xác là ngày 17/3/2008, sự sụt giá không kiểm soát nổi của các khoản đầu tư tài chính- bất động sản đã buộc Tập đoàn môi giới chứng khoán Bear Stearns của Mỹ tê liệt và chấm dứt hoạt động sau 85 năm tồn tại. Bear Stearns phải chấp nhận bán lại cho đối thủ JP Morgan Chase với giá 240 triệu USD, bao gồm cả trụ sở của hãng này.

Chưa dừng lại ở đó, đến ngày 29/4/2008, Deutsche Bank lần đầu tiên trong 5 năm công bố một khoản thua lỗ trước thuế sau khi buộc phải trích lập dự phòng 4,2 tỷ USD cho các khoản nợ xấu và các chứng khoán được đảm bảo bởi các khoản thế chấp bất động sản. Đến ngày 31/7/008, ngân hàng này công bố khoản trích lập dự phòng tiếp theo là 3,6 tỷ USD, nâng tổng số tiền ngân hàng này mất lên 11 tỷ USD, và Deutsche Bank trở thành một trong 10 nạn nhân lớn nhất của cuộc khủng hoảng tín dụng toàn cầu. Trước đó, ngày 11/7/2008, chính quyền liên bang Mỹ đoạt quyền kiểm soát Ngân hàng IndyMac Bancorp. Đây là một trong những vụ đóng cửa ngân hàng lớn nhất từ trước tới nay sau khi những người gửi tiền đã rút ra hơn 1,3 tỷ USD trong vòng 11 ngày.

Cơn địa chấn tài chính thực sự nổ ra ngày 7/9/2008 khi hai tập đoàn chuyên cho vay cầm cố khổng lồ Mỹ là Freddie Mac và Fannie Mae buộc phải được chính phủ tiếp quản để trán khỏi nguy cơ phá sản. Sự kiện này tiếp tục châm ngòi cho vụ đổ vỡ với những tên tuổi lớn khác. Ngày 15/9/2008, ngân hàng đầu tư lớn thứ 4 Mỹ Lehman Brothers sau 158 năm tồn tại đã tuyên bố phá sản. Đúng 10 ngày sau, Washington Mutual Inc, một trong những ngân hàng lớn nhất Mỹ, đã tạo nên vụ phá sản ngân hàng lớn nhất trong lịch sử với tổng giá trị tài sản thiệt hại lên tới 307 tỷ USD. Ngoài ra, do khủng hoảng tài chính, Ngân hàng đầu tư số một nước Mỹ, Merill Lynch bị thâu tóm bởi Bank of America. Chính phủ đã buộc phải bơm 85 tỷ USD vào AIG, Tập đoàn bảo hiểm lớn nhất thế giới, để tránh cho thị trường tài


chính nước này một kết cục tồi tệ hơn.

Tháng 9 và 10/2008 trở thành giai đoạn đen tối với phố Wall khi chỉ số Dow Jones sụt tới 25% giá trị chỉ sau một tháng kể từ ngày 15/9/2008. Biến động tại phố Wall trở nên khó lường hơn với nhiều kỷ lục cả tăng và giảm tồn tại trong hàng chục năm đã bị phá. Không chỉ ở phố Wall, tuần lễ từ 15 đến 21/9/2008 thị trường chứng khoán của cả thế giới chao đảo, từ Tokyo đến Thượng Hải, Seoul và Hồng Kông, các chỉ số chứng khoán đều tuột dốc mạnh.Tại Châu Âu, các thị trường chứng khoán Paris, Luandon, Franfurt, Amsterdam cùng chung số phận. Thị trường chứng khoán Matxcova cũng lâm vào tình trạng hoảng loạn đến nỗi phải tạm đóng cửa để chờ cho cơn bão đi qua.

Xen giữa nhứng sự kiện trên, 9 tháng đầu năm 2008 chứng kiến các cơn sốt giá dầu, lương thực, và lạm phát làm khuynh đảo nền kinh tế toàn cầu. Đặc biệt là giá dầu, từ mức 90 USD một thùng vào đầu năm 2008 đã leo lên trên 100 USD vào 20/2/2008 và lập kỷ lục trên 147 USD một thùng vào 11/7/2008. Giá dầu leo thang kéo giá hàng hóa cơ bản và lương thực lên theo. Trong đó, vàng lập kỷ lục trên 1000 USD một ounce vào ngày 17/3/2008. Còn giá lương thực đắt đỏ lại tạo ra căng thẳng thực sự tại nhiều nơi, thậm chí cả ở các quốc gia xuất khẩu lương thực. Nạn lạm phát từ đó cũng xảy ra tràn lan tại nhiều quốc gia. Tuy nhiên sau khi đạt đỉnh vào tháng 7/2008, giá dầu bất ngờ lao dốc không phanh. Nguyên nhân của hiện tượng trên là nhu cầu sử dụng dầu tại nhiều quốc gia, đặc biệt là Trung Quốc và Ấn Độ, sụt giảm mạnh do khó khăn về kinh tế. Hiện giá nhiên liệu này chỉ còn khoảng 40 USD một thùng, mất hơn 100 USD, tương ứng gần 70% so với mức giá kỷ lục trước đó vài tháng, bất chấp những nỗ lực cắt giảm sản lượng của OPEC.

Quay trở lại với diễn biến của cuộc khủng hoảng tài chính, tình trạng thị trường tài chính đóng băng ngày càng tồi tệ đã khiến Ngân hàng Trung ương Mỹ, Anh, Nhật, EU và nhiều quốc gia khác phải cắt giảm lãi suất, từ đó lãi suất cơ bản từ 5% đã xuống chỉ còn 0,25%. Không dừng lại ở điều chỉnh tài khóa, các quốc gia trên cũng tích cực bơm tiền nhằm hỗ trợ thanh khoản cho các tập đoàn tài chính, cũng như kích thích hoạt động tiêu dùng và cho vay. Trong đó, FED quyết định dùng 700 tỷ USD để mua lại nợ xấu của các ngân hàng. TRước khi được thông qua ngày 1/110/2008, kế hoạch hỗ trợ lớn chưa từng có trong lịch sử đã vấp phải không ít phản đối tại Quốc hội Mỹ. Đặc biệt tại vòng bỏ phiếu vào ngày 29/9/2008, Hạ viện bất ngờ không thông qua kế hoạch trên tạo ra một cú sốc thực sự với phố Wall khiến chỉ số Dow Jones trải qua ngày giảm điểm tồi tệ nhất trong lịch sử. Không lâu sau khi kế

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.


hoạch trên được thông qua, vào các ngày 13-14/10/2008, các quốc gia châu Âu đã công bố gói giải pháp hỗ trợ kinh tế khổng lồ có trị giá lên tới 2.300 tỷ USD.

Một số giải pháp hạn chế sự ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng tài chính thế giới tới hoạt động xuất nhập khẩu Việt Nam - 3

Bước vào quý IV/2008, suy thoái kinh tế toàn cầu biểu hiện rõ sau khi các trung tâm kinh tế lớn như Mỹ, Nhật Bản, EU cùng lần lượt rơi vào suy thoái. Kinh tế Mỹ lâm vào suy thoái với tốc độ nhanh, khoảng âm 0,3% trong quý III/2008. Mức chi tiêu của người tiêu dùng, vốn đóng góp tới hai phần ba vào sự tăng trưởng kinh tế Mỹ, suy giảm mạnh nhất kể từ năm 1980. Thâm hụt ngân sách liên bang trong năm tài khóa 2008 tăng mạnh với mức kỷ lục 454,8 tỷ USD, cao gấp ba lần mức thâm hụt 161,5 tỷ USD trong tài khóa năm 2007, chủ yếu do chi phí quốc phòng tăng mạnh, nhất là phục vụ cho hai cuộc chiến tranh Iraq, Afghanistan. Dự báo thâm hụt ngân sách liên bang trong tại khóa năm 2009 có thể lên tới 1000 tỷ USD. Theo Bộ Lao động Mỹ, tỷ lệ thất nghiệp hiện nay của nước này lên đến 6,5% cao nhất trong 14 năm qua. Theo dự báo, kinh tế Mỹ tiếp tục suy thoái trong năm 2009, tỷ lệ thất nghiệp có thể lên 8%, trong khi cac khoản tiền dự trữ và giá trị bất động sản giảm mạnh, chỉ số lòng tin của người dân Mỹ giảm xuống tới mức kỷ lục. Điều này càng làm cho nền kinh tế số một thế giới lâm vào suy thoái trầm trọng hơn.

Tiếp theo Mỹ, nền kinh tế thứ hai thế giới là Nhật Bản đã chính thức công bố suy thoái kinh tế vào ngày 18-11-2008 sau khi tăng trưởng âm liên tiếp trong hai quý II và III/2008. Như vậy, đây là lần đầu tiên kể từ năm 2001, kinh tế Nhật Bản rơi vào suy thoái. Trước đó, khu vực đồng tiền chung Euro cũng lần đầu tiên rơI vào suy thoáI kể từ khi hình thành năm 1999. Số liệu thống kê cho thấy GDP của 15 nước sử dụng đồng tiền chung Euro đã tăng trưởng âm liên tiếp trong hai quý II và III/2008. Đức là nền kinh tế lớn nhất châu Âu và đứng thứ ba thế giới chính thức rơi vào cuộc suy thoái lớn nhất trong vòng 12 năm qua, kinh tế Anh cũng lâm vào suy thoái, theo dự báo năm 2009 sẽ chịu mức giảm mạnh nhất kể từ gần hai thập niên qua, số người thất nghiệp có thể lên tới 3 triệu người vào năm 2010. Số liệu thống kê của Italia cho biết nền kinh tế nước này rơi vào cuộc suy thoái nặng nề nhất kể từ năm 1992.

Khủng hoảng tài chính cũng tràn qua Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Braxin,… là những nơi được dự đoán là ít chịu tác động nhất. Kinh tế Trung Quốc vốn được coi là một động lực tăng trưởng của kinh tế thế giới, sau nhiều năm tăng trưởng ở mức hai con số, đã giảm chỉ còn 9% trong quý III/2008 Ngân hàng thế giới cho biết tăng trưởng GDP của Trung Quốc chỉ đạt 7,5% trong năm 2008, mức thấp nhất trong vòng 19 năm qua. Tốc độ tăng trưởng công nghiệp đã giảm sút nghiêm trọng từ 16% trong tháng 6 xuống còn 8,2% trong tháng 10/2008, thấp nhất trong 7 năm qua.


Xuất khẩu suy giảm do khủng hoảng tài chính, theo dự báo sẽ còn có khó khăn hơn trong năm 2009, kéo theo sự sụt giảm nhiều ngành sản xuất khác và làm tăng tỷ lệ thất nghiệp.

Khủng hoảng tài chính tại Nga đang ngày càng trầm trọng khi đồng Rup mất giá mạnh, Chính phủ đã phải chi 58 tỷ USD để giữ giá đồng tiền này. Trong khi đó, nguy cơ thâm hụt ngân sách của Nga rất lớn và kinh tế khó khăn, bởi thời kỳ thịnh vượng nhờ giá dầu lửa cao đã chấm dứt. Nền kinh tế Nga vốn ổn định và mạnh lên trong thời gian khá dài nhờ xuất khẩu dầu lửa được giá, nhưng hiện đứng trước nhiều khó khăn do khủng hoảng tài chính và giá dầu thế giới giảm mạnh, xuống dưới 50USD/ thùng- đây là mức thấp nhất trong 4 năm qua. Nga đang thực hiện các giải pháp nhằm thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng hiện nay. Chính phủ dự định chi khoảng 190 tỷ USD nhằm hỗ trợ hệ thống tài chính và ngân hàng, các ngành kinh tế then chốt cũng như cho doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Hầu hết các nền kinh tế lớn như Đông- Nam á đều định hướng xuất khẩu và phụ thuộc nhiều vào thương mại quốc tế và đầu tư nước ngoài. Do vậy, dù ở mức độ khác nhau các nước trong khu vực Đông- Nam á dễ bị tác động của xu hướng giảm sút thương mại và đầu tư trên thế giới hiện nay. Trước mắt, lĩnh vực xuất khẩu, thị trường chứng khoán và thị trường tiền tệ khu vực đang chịu ảnh hưởng mạnh của cuốc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Singapore là quốc gia đầu tiên ở Đông- Nam á rơi vào suy thoái năm 2008, ba lĩnh vực trụ cột của kinh tế nước này là xuất khẩu hàng công nghiệp chế tạo, dịch vụ tài chính – ngân hàng và du lịch đều bị ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế cả năm khoảng 3%. Chính phủ đã phải tạm thời đình chỉ kế hoạch từng bước tăng giá đồng nội tệ SGD. Các biện pháp kích thích cả gói có thể làm cho thâm hụt ngân sách năm 2008 tăng lên gấp ba lần. Kinh tế Hàn Quốc cũng báo động đỏ khi đồng Won mất giá hơn 40% kể từ đầu năm và hiện ở mức thấp nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 2007. Chính phủ Hàn Quốc đã phải thực hiện một số biện pháp khẩn cấp như cắt giảm lãi suất và bơm tiền vào hệ thống tài chính. Thái Lan cũng có những biểu hiện của suy thoái kinh tế. Trong bối cảnh đó Pakistan là nước châu Á đầu tiên kêu gọi IMF trợ giúp 6,5 tỷ USD.

Tình trạng đóng băng của hệ thống tài chính tiếp tục dẫn đến sự giảm sút trong các hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, cũng như chi tiêu của người dân . Hệ quả của tình trạng trên là nhiều doanh nghiệp phá sản và đẩy tỷ lệ thất nghiệp tại nhiều quốc gia tăng cao, chỉ số lòng tin của người tiêu dùng rơi xuống mức thấp


nhất trong nhiều năm. Trong 3 tháng, tính tới đầu quý IV/2008, đã có hơn 30000 doanh nghiệp Mỹ phá sản

Chưa dừng lại ở đó, mọi chuyện còn có thể tồi tệ hơn nữa nếu ba nhà sản xuất xe hơi hàng đầu là Ford, General Motor và Chrysler phá sản. Kể từ đầu năm đến nay, ngành công nghiệp xe hơi của Mỹ đã bị khủng hoảng tài chính “ quật” cho tơi tả. Với việc doanh số bán xe trong tháng 10/2008 của Mỹ tụt xuống mức thấp nhất trong vòng 25 năm qua, và dự đoán sẽ tồi hơn do khủng hoáng tài chính, ba đại gia trên đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, mà trước mắt là cạn kiệt tiền mặt. Chrysler từ ngày 18/12/2008 đã ngưng hoàn toàn hoạt động sản xuất tại khu vực Bắc mỹ. Chính phủ Mỹ đang cân nhắc kế hoạch cho GM và Chrysler, hai tập đoàn nguy ngập nhất, vay gấp 14 tỷ USD trong thời gian ngắn, được trích từ nguồn hỗ trợ 700 tỷ USD dành cho việc mua nợ xấu của các ngân hàng. Tuy nhiên, khoản tiền trên có lẽ chỉ như một liều thuốc tạm thời, đủ để hai hãng sống sót đến hết quý I/2009. Các kế hoạch dài hơn nhàm giải quyết khó khăn của ngành công nghiệp xe hơn khi đó được chuyển giao cho Chính phủ mới của tổng thống Barack Obama. Theo ước tính của các chuyên gia kinh tế, nếu các công ty được coi là biểu tượng của nền công nghiệp xe hơi Mỹ phá sản, sẽ có thêm khoảng 2,5 triệu lao động bị mất việc làm. Tỷ lệ thất nghiệp ở Mỹ từ đó cũng sẽ leo thang với tốc độ chóng mặt.

1.2.2. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng

- Bắt đầu từ đầu năm 2001 (12/01/2001), để giúp nền kinh tế thoát khỏi sự trì trệ kéo dài (một phần lớn bị tác động bởi sự kiện 11/09/2001 nước Mỹ bị khủng bố và Mỹ tấn công Afghanistan, Iraq), nguyên Thống đốc Hệ thống Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) Alan Green Span đã liên tục điều chỉnh hạ thấp lãi suất Federal Funds từ 6% xuống còn 1% vào ngày 25/06/2003, từ đó dẫn đến các ngân hàng thương mại cũng hạ lãi suất cho vay (từ 9-10%/năm xuống còn 4-5%/năm). Chính sách tiền tệ của NHTW được nới lỏng, dư nợ tín dụng của hệ thống NHTM cũng được mở rộng theo, nhiều khoản vay mua nhà dưới chuẩn được thực hiện với sự tiếp sức của các môi giới tín dụng và môi giới bất động sản (BĐS).

Nhờ vậy thị trường bất động sản trở nên nhộn nhịp cũng giống như ở nước ta năm 2007 và bong bóng BĐS đã hình thành với sự giúp sức của những nhà đầu cơ chuyên nghiệp. Theo ước tính của các chuyên gia (trên Báo Thanh niên ngày 16/10/2008) thì dư nợ cho vay dưới chuẩn tăng từ 160 tỉ USD ở năm 2001 lên 540 tỉ vào năm 2004 và trên 1.300 tỉ vào năm 2007. Điều đó cho chúng ta thấy rằng khoản cho vay dưới chuẩn đã tăng lên một cách nhanh chóng. Cũng theo ước tính của


nhiều chuyên gia (Thời Báo Kinh tế VN ngày 03/10/2008) trong 22.000 tỷ USD giá trị bất động sản tại Mỹ thì có tới hơn 12.000 tỷ USD là tiền đi vay, trong đó khoảng

4.000 tỷ USD là nợ xấu. Điều lưu ý là phần lớn các hợp đồng vay dài hạn thường được tính theo lãi suất khả biến và điều chỉnh theo tín hiệu thị trường.

- Và cũng bắt đầu từ ngày 30/06/2004 FED đã chính thức điều chỉnh tăng lãi suất để chống lại lạm phát đang có khuynh hướng gia tăng trước chính sách tiền tệ nới lỏng. FED đã liên tục điều chỉnh lãi suất FED FUNDS gia tăng từ 1% lên 1.25, 1.50, …và 5.25% vào ngày 30/06/2006, kéo theo lãi suất NHTM tăng từ 4% lên 8- 9%/năm. Các khoản tiền lãi vay phải trả của những người mua nhà đã gia tăng mạnh và đe dọa khả năng trả nợ. Thị trường bất động sản Mỹ bắt đầu đóng băng và sụt giảm giá trị,..nợ quá hạn, nợ khó đòi gia tăng và đó là nguyên nhân chính dẫn đến khủng hoảng tài chính tại Mỹ hiện nay.

-Mọi việc sẽ bớt phức tạp nếu dừng lại ở đó không “phái sinh” thêm nữa. Tại Mỹ, thị trường tài chính vốn dĩ là bà đỡ cho nền kinh tế nên nó đã bị lợi dụng trong ván bài này. Cụ thể là các khoản nợ dưới chuẩn này lại là cơ sở để hình thành các sản phẩm chứng khoán phái sinh. Các nhà đầu tư (các ngân hàng, công ty bảo hiểm…) mua lại các khoản thế chấp này (mortgages), sau đó các tổ chức tài chính đã biến các hợp đồng cho vay bất động sản này làm tài sản bảo đảm để phát hành trái phiếu ra thị trường với tên gọi là “Mortgage backed securities – MBS”. Các sản phẩm phái sinh này lại được các tổ chức định mức tín nhiệm (Credit rating agencies) đánh giá cao, nên dễ mua bán. Bên cạnh đó, các hợp đồng tín dụng dưới chuẩn này còn được các tổ chức bảo hiểm (AIG là một điển hình) bảo lãnh dưới những hợp đồng hoán đổi CDS-Credit Default Swap (giống như mua bảo hiểm rủi ro). Khi nợ không đòi được tổ chức bảo hiểm phải bồi hoàn cho ngưới mua bảo hiểm (người cho vay).

-Điều lưu ý là cuộc khủng hoảng tài chính hiện tại không đơn thuần chỉ là khủng hoảng tín dụng nhà đất mà nguyên do sâu xa hơn được tích lũy thời gian dài: do bùng nổ tín dụng, sự bùng nổ nợ tiêu dùng, nhận thức xu hướng phát triển tồn tại mãi, sự tôn sùng về thị trường tự do không kiểm soát, sự sùng bái thị trường tài chính, kinh tế thị trường...

1.2.2. Tính chất và đặc điểm của cuộc khủng hoảng

Cần đặc biệt chú ý đến một điểm sau đây:

Thứ nhất, cuộc khủng hoảng lần này nổ ra tại nước Mỹ, đây là đầu tàu kinh tế thế giới, vì vậy rất dễ lan truyền ra toàn cầu. Khi nước Mỹ dùng tới cả tiền tiết


kiệm của thế giới để giải quyết vấn đề khủng hoảng của mình, rõ ràng khủng hoảng sẽ lan rộng và tăng cấp.

Theo Joseph E.Stiglitz, nguyên kinh tế gia trưởng của WB và là người đã đạt giải Nobel kinh tế năm 2001, Mỹ đã xuất khẩu món nợ dưới chuẩn độc hại của mình đi khắp thế giới, dưới dạng các loại giấy tờ có giá được đảm bảo bằng tài sản. Mỹ đã xuất khẩu triết lý kinh tế thị trường tự do ở mức mà ngay cả vị tu sỹ cao cấp nhất của trường phái đó là Alan Greenspan giờ cũng phải thừa nhận là sai lầm. Mỹ đã xuất khẩu một thứ văn hóa doanh nghiệp vô trách nhiệm đối với xã hội mà rõ nhất là việc mua bán quyền chọn cổ phiếu một cách thiếu minh bạch, thứ văn hóa đã khiến người ta làm sai lệch sổ sách kế toán doanh nghiệp, mà đỉnh điểm là những vụ scandal như Enron hay Worldcom mấy năm trước đây. Và cuối cùng, Mỹ đã xuất khẩu cả sự suy thoái kinh tế đi bốn phương.

Cũng do nổ ra tại Mỹ, nên có nhiều ý kiến cho rằng cuộc khủng hoảng này đánh dấu sự suy yếu vị thế kinh tế tài chính của Mỹ, cùng với những khó khăn và thách thức khác đang làm giảm vị thế và hình ảnh của Mỹ trên trường quốc tế. Điều này sẽ đẩy nhanh sự chuyển dịch kinh tế thế giới sang một hệ thống đa cực hơn, thúc đẩy xu hướng dần hình thành thế giới đa cực trong thời gian tới.

Thứ hai, cuộc khủng hoảng tài chính lần này tiến triển bất ngờ, nhanh và không được dự báo trước. Trong thời gian hơn một năm vừa qua, tất cả các cơ quan dự báo uy tín trên thế giới cũng như các nước phát triển và đang phát triển, thậm chí là ở Mỹ một quốc gia được coi có thông tin tương đối công khai và chính xác, cũng dự báo sai về tiến triển và hậu quả của cuộc khủng hoảng. Cho đến nay, vẫn chưa có cơ quan nào có thể đưa ra dự báo tương đối chắc chắn về diễn biến của cuộc khủng hoảng trong tương lai, đặc biệt là khi nó kết thúc, khi nào đà suy thoái của nền kinh tế thế giới chấm dứt và bắt đầu hồi phục.

Thứ ba, cuộc khủng hoảng lần này cớ mức độ ảnh hưởng sâu và rộng. Không chỉ lan nhanh từ Mỹ ra toàn cầu, cuộc khủng hoảng còn lan mạnh sang nhiều lĩnh vực như: Từ tài chính sang kinh tế, từ kinh tế ảo sang kinh tế thực, từ kinh tế sang xã hội, từ thực tiễn sang chính sách, từ chính sách sang chủ thuyết... Sự suy thoái kinh tế toàn cầu đã dẫn đến thất nghiệp gia tăng ở khắp mọi nơi trên thế giới, gây bất ổn về mặt xã hội, thậm chí ở một số nơi còn xảy ra khủng hoảng chính trị.

Khủng hoảng tài chính không chỉ dẫn tới khủng hoảng về các mặt kinh tế, chính trị, xã hội,...một số nhà kinh tế hàng đầu thế giới cho rằng nó còn dẫn tới sự phá sản của mô hình chủ nghĩa tư bản với kinh tế thị trường tự do mới mà định


hướng chủ yếu là đẩy mạnh hoạt động của thị trường tự do, khuyến khích tư nhân hóa và hạn chế sự can thiệp kiểm soát của nhà nước. Quay trở lại quá khứ, cuộc đại khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933 đã đánh dấu sự sụp đổ của tư tưởng tự do kinh tế, lý thuyết kinh tế tự điều chỉnh với “bàn tay vô hình” là thị trường bị thất bại, dẫn đến sự ra đời của lý thuyết kinh tế “chủ nghĩa tư bản có điều tiết” của John Maynard Keynes năm 1936, với chủ trương nhà nước can thiệp, điều tiết nền kinh tế. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1974 - 1975, với những căn bệnh trầm trọng của chủ nghĩa tư bản như lạm phát gắn với suy thoái, khủng hoảng cơ cấu đã làm cho học thuyết của J.Keynes rơi vào khủng hoảng.

Suốt trong thời gian dài từ những năm 80 của thế kỉ 20 đến nay, lý thuyết chi phối sự vận hành của nền kinh tế Mỹ bắt nguồn từ lý thuyết kinh tế thị trường tự do mới của Ronald Reagan và Magaret Thatcher. Cuộc khủng hoảng tài chính trầm trọng lần này tại chính nước Mỹ đã khiến ông Greenspan sau hơn 18 năm làm chủ tịch FED, một người vốn tin tưởng tuyệt đối vào điều tiết của thị trường tự do, đã thừa nhận sự thất bại của mô hình chủ nghĩa tư bản kinh tế thị trường tự do mới. Ông đề nghị chính phủ Mỹ xem xét ban hành các qui định quản lý kinh tế chặt chẽ hơn, để các định chế tài chính không thể mạo hiểm bỏ vốn vào các khoản đầu tư rủi ro, sau đó chính phủ lại phải đứng ra cứu trợ, thiếu sự kiểm soát của nhà nước trong hoạt động của thị trường tài chính sẽ tiềm ẩn nguy cơ và dẫn đến khủng hoảng.

GS. Joseph E. Stiglitz cũng thừa nhận thực tế nêu trên khi phát biểu rằng: “Thế giới dường như đang tỏ ra không mặn mà với chủ nghĩa tự do mới, một chiếc túi chứa đầy những ý tưởng dựa trên nền tảng cơ bản là thị trường luôn luôn tự điều tiết, phân bổ hiệu quả các nguồn lực và phục vụ lợi ích chung”. Theo ông sau một phần tư thế kỉ thử nghiệm ở các nước đang phát triển, đã xuất hiện nhiều trường hợp thất bại: không chỉ các nước áp dụng chính sách tự do mới thất bại trong cuộc chạy đua thúc đẩy tăng trưởng, mà ngay cả khi đã đạt được tăng trưởng thì lợi ích từ kết quả này lại được phân chia một cách không công bằng, chủ yếu tập trung vào những người giàu. Trong một thế giới thừa thãi, vẫn có hàng triệu người ở các nước đang phát triển không được hưởng khẩu phần dinh dưỡng tối thiểu. Đang tồn tại một khoảng cách rất lớn giữa lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân. Nếu hai lợi ích này không hài hòa, kinh tế thị trường không thể phát triển. Và ông nhận định thêm: “Tư tưởng tự do mới là một học thuyết chính trị phục vụ cho lợi ích cá nhân, nó không dựa trên nền tảng của một học thuyết kinh tế. Nó cũng không dựa trên một kinh nghiệm lịch sử nào. Đây là bài học duy nhất cần rút ra từ mối đe dọa đang đè nặng lên nền kinh tế thế giới hiện nay”. Và đây chính là sự cáo chung của chủ nghĩa tự do mới.

Thứ tư, đúng như lời của ông Alan Greenspan nhận định, đây là cuộc khủng

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 07/05/2022