Hiện Trạng Của Xuất Khẩu, Nhập Khẩu Việt Nam Trước Và Trong Thời Kì Khủng Hoảng


hoạch doanh thu và lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết làm giá cổ phiếu của các doanh nghiệp này vốn đang sụt giảm lại khó có khả năng phục hồi.

Hai là, khủng hoảng tài chính đã làm cho các nhà đầu tư nước ngoài bán ròng cổ phiếu, trái phiếu. Tính từ đầu tháng 8/2008 đến đầu tháng 10/2008 các nhà đầu tư nước ngoài đã liên tục bán ròng cổ phiếu với tổng giá trị lên 1.278 tỷ đồng và khoảng 13,5 ngàn tỷ đồng đối với trái phiếu. Với giá trị bán ra khổng lồ này đã góp phần không nhỏ vào sự sụt giảm của chỉ số VN-Index và Hastc-Index thời gian qua. Trước đó, nhiều ý kiến đã “trấn an” các nhà đầu tư là sẽ không có chuyện các nhà đầu tư ngoại rút vốn vì phần lớn các quỹ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam là các quỹ đóng. Thực tế cho thấy, đồng nội tệ của nhiều quốc gia bị ảnh hưởng nặng bởi lạm phát đã mất giá so với đồng USD vài chục phần trăm trong khi sự giảm giá của đồng Việt Nam so với đồng USD và các ngoại tệ mạnh khác là không đáng kể. Khả năng nhà đầu tư nước ngoài đã nhận định rằng đồng Việt Nam sẽ tiếp tục mất giá cũng như các đồng tiền khác nên đã bán chứng khoán để mua ngoại tệ nhằm kiếm lời là rất có thể. Nếu kịch bản diễn ra đúng như họ dự đoán thì khi đó họ sẽ bán ngoại tệ để tiếp tục đầu tư vào chứng khoán.

Thứ ba, tác động rõ nét nhất của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đến TTCK Việt Nam là ở yếu tố tâm lý. Thật ra, yếu tố tâm lý trên TTCK thì ở quốc gia nào cũng có, đặc biệt là các quốc gia có thị trường này mới hình thành. Yếu tố tâm lý đã làm cho TTCK Việt Nam bao phen lâm vào tình trạng mất cân đối cung cầu: khi giá chứng khoán lên thì mua không được, ngược lại khi giá rớt thì chỉ toàn lệnh bán mà không có lệnh mua. Sở dĩ có hiện tượng này là do phần nhiều các nhà đầu tư Việt Nam chưa chuẩn bị kiến thức và bản lĩnh cũng như kinh nghiệm cần thiết để tham gia mua bán chứng khoán, mặt khác môi trường thông tin chưa thật sự đảm bảo cho thông tin đến với tất cả các nhà đầu tư cùng một lúc và chuẩn xác. Việc đầu tư theo đám đông đã gây khó khăn trong việc hoạch định chính sách và điều tiết thị trường của cơ quan quản lý và trở thành mảnh đất màu mỡ cho các hành vi làm giá, giao dịch nội gián, tung tin đồn thất thiệt…để trục lợi. Tâm lý mua bán theo đám đông lại trở nên nặng nề hơn khi nền kinh tế bị lạm phát. Mỗi khi các thông tin về việc tăng giá xăng dầu, NHNN tăng lãi suất cơ bản hoặc chỉ số giá tiêu dùng được công bố đều nhận được phản ứng tức thời từ TTCK. Trong giai đoạn này, các nhà đầu tư nước ngoài được xem là nhân tố dẫn dắt thị trường. Động thái mua vào hoặc bán ra của họ cũng sẽ làm cho giá chứng khoán tăng hoặc giảm theo. Nhưng từ cuối tháng 9/2008 đến nay, rất nhiều thông tin tốt về nền kinh tế được phát đi như lãi


suất cơ bản và giá xăng liên tục giảm, chỉ số giá tiêu dùng giảm đáng kể đã không nhận được những phản ứng tích cực nào từ thị trường và chỉ số chứng khoán cả 2 sàn Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội đều giảm. Điều đó cho thấy nhà đầu tư Việt Nam đã không còn quan tâm đến các thông tin tốt từ nền kinh tế trong nước nữa. Cái mà họ quan tâm là diễn biến tình hình giao dịch ở các TTCK Mỹ, Anh, Nhật Bản…thế nào và sẽ có hành vi đầu tư tương tự. Thời gian gần đây, diễn biến của các chỉ số chứng khoán Việt Nam luôn cùng chiều với chỉ số của các thị trường trên. Vậy là cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã chuyển hướng tâm lý đầu tư của các nhà đầu tư Việt Nam: từ đầu tư theo nhà đầu tư nước ngoài ở trong nước sang đầu tư theo các “nhà đầu tư ngoài nước”. Tâm lý này trở thành một rào cản không nhỏ cho các nỗ lực của Chính phủ nhằm vực dậy TTCK. Nhiều chuyên gia đã chỉ ra rằng, khi thị trường tài chính có biến động mạnh ở một hoặc nhiều nước phát triển, các TTCK toàn cầu có độ liên thông lớn hơn rất nhiều so với thời kỳ ổn định và Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó.

Thứ tư, tâm lý giá xuống đã làm méo mó vai trò là “phong vũ biểu” phản ánh “sức khỏe” nền kinh tế và đe dọa tính thanh khoản của thị trường. Đó là khi, giá chứng khoán xuống quá thấp thì người bán lại không muốn bán nhưng người mua cũng sẽ không dám mua do vẫn còn lo sợ chứng khoán sẽ tiếp tục giảm nữa. Khi đó từ “khủng hoảng niềm tin” thị trường sẽ chuyển sang một cuộc khủng hoảng khác nguy hiểm hơn nhiều: khủng hoảng về tính thanh khoản.

Thứ năm, mặc dù không phải phát sinh mới đây do cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nhưng TTCK Việt Nam vẫn còn tồn tại rất nhiều những vấn đề khác mà trong phạm vi bài viết này chúng tôi chưa có điều kiện đề cập đến. Cụ thể như các vấn đề về khung pháp lý, vai trò quản lý, giám sát của Nhà nước, tính minh bạch của thị trường…

Về thị trường chứng khoán, luồng tiền đầu tư gián tiếp vào Việt Nam suy giảm và đã có hiện tượng các nhà đầu tư nước ngoài rút vốn khỏi thị trường. Mặc dù tình hình kinh tế vĩ mô của Việt Nam trong những tháng gần đây có những chuyển biến tích cực, nhưng thị trường chứng khoán Việt Nam tiếp tục sụt giảm. VN-index giảm liên tục và lập đáy mới xuống dưới 350 điểm. Việc nhà đầu tư nước ngoài có biểu hiện rút khỏi thị trường chứng khoán Việt Nam đã gây tâm lý hoang mang cho các nhà đầu tư trong nước.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.

2.1.2.2. Về đầu tư nước ngoài

Cuộc khủng hoảng đã bước đầu có ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và viện trợ phát triển chính thức (ODA). Số dự án FDI đăng ký mới có xu hướng chững lại, trong tháng 10-2008, tổng số dự án đăng ký mới là 68 dự án với tổng vốn đăng ký là 2,02 tỷ USD, thấp hơn nhiều so với các tháng đầu năm (9 tháng đầu năm có 885 dự án đăng ký với tổng số vốn đăng ký là 56,27 tỷ USD).

Một số giải pháp hạn chế sự ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng tài chính thế giới tới hoạt động xuất nhập khẩu Việt Nam - 6

Khả năng giải ngân vốn FDI và ODA trong năm 2008 cũng đang chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng. Tổng vốn FDI thực hiện trong 10 tháng năm 2008 so với tổng số vốn đăng ký mới và tăng thêm chỉ đạt khoảng 15%. Số vốn ODA giải ngân năm 2008 có thể không đạt được như dự báo trước là 2,3 tỷ USD.

Trong những năm tới, khủng hoảng tài chính thế giới có thể khiến dòng đầu tư nước ngoài cả trực tiếp và gián tiếp vào Việt Nam suy giảm vì những lo ngại về bất ổn kinh tế và sự suy thoái kinh tế toàn cầu.

Tác động lớn nhất của cuộc khủng hoảng này là làm thay đổi hoàn toàn và sâu sắc ngành công nghiệp tài chính Mỹ và hệ thống tài chính toàn cầu. Trong những năm tới, dòng vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp và gián tiếp vào Việt Nam sẽ suy giảm, vì do bất ổn kinh tế và sự suy thoái kinh tế toàn cầu. sẽ suy giảm,vì do bất ổn kinh tế và sự suy thoái toàn cầu.

Về ngắn hạn, khủng hoảng ở Mỹ chưa có tác động lớn đến Việt Nam do dòng vốn đầu tư vào Việt Nam hầu hết bắt nguồn từ các nước và vùng lãnh thổ trong khu vực như Singapore, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan,... Mỹ chỉ đứng thứ 11 trong hơn 80 quốc gia và vùng lãnh thổ có hoạt động đầu tư trực tiếp tại Việt Nam với 419 dự án còn hiệu lực, tổng số vốn đăng ký 4,1 tỷ USD.

Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính đã không chỉ dừng lại ở Mỹ mà đã lan sang các nước phát triển khác, trong đó có Nhật Bản, Hàn Quốc và các quốc gia có đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Các nước châu Á, nơi chiếm tới 80% dòng vốn đầu tư vào Việt Nam, cũng đang chịu tác động lớn của cuộc khủng hoảng. Việc huy động vốn trên thế giới sẽ gặp nhiều khó khăn do chi phí vốn trở nên đắt đỏ hơn. Hậu quả là các nhà đầu tư sẽ hạn chế tăng thêm đầu tư mới và thực hiện các dự án đã cam kết. Đã có xu hướng một số công ty mẹ ở chính quốc yêu cầu các chi nhánh tại Việt Nam phải giảm đầu tư để rút vốn về để tháo gỡ khó khăn cho các công ty mẹ. Do vậy, trong dài hạn, nếu khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới không bị chặn lại thì chắc chắn nó sẽ tác động tới đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam.


Giải ngân vốn FDI cũng có thể sẽ giảm, khi mà trong tình hình khó khăn hiện nay, các công ty đầu tư vào Việt Nam sẽ thận trọng hơn trong kế hoạch tài chính và đầu tư. Thêm vào đó, hầu hết các dự án đầu tư nói chung, dự án FDI nói riêng, phần nợ vay thường chiếm một tỷ phần rất lớn trong tổng vốn đầu tư, nên khi các tổ chức tài chính đang gặp khó khăn sẽ làm cho nhiều hợp đồng vay vốn sẽ không được ký kết hoặc không thể giải ngân. Ngay cả các dự án FDI đang triển khai cũng có thể bị chững lại, vì rất có thể, các công ty sẽ phải cân đối lại nguồn vốn, bảo đảm tài chính an toàn trong khủng hoảng. Riêng các dự án mới cấp phép, nếu chủ đầu tư bị tổn thương lớn từ cuộc khủng hoảng này, thì có thể bị tạm dừng triển khai, thậm chí rút bỏ. Do vậy, năm 2009 - 2010, tốc độ giải ngân vốn FDI được dự báo là sẽ theo xu hướng chậm lại.

Những dự báo ban đầu cho thấy, số vốn ODA cam kết và giải ngân tại Việt Nam trong những năm tới sẽ có xu hướng giảm do nguồn vốn đầu tư của các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế và dự trữ cho vay của các nước phát triển được cân đối lại để bình ổn thị trường tài chính.

Huy động vốn gián tiếp vào thị trường cổ phiếu Việt Nam trong thời gian tới sẽ rất khó khăn do các nhà đầu tư sẽ hướng tới các kênh đầu tư an toàn. Việc bán tháo chứng khoán khỏi thị trường Việt Nam là có thể, mặc dù xác suất không cao, do tính thanh khoản và quy mô của thị trường. Điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường chứng khoán và quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước lớn trong các năm tới. Việc huy động vốn thông qua thị trường vốn khó khăn trong khi thị trường tín dụng thắt chặt sẽ chặn dòng vốn và đẩy chi phí tài chính của các doanh nghiệp lên cao.

Một khía cạnh khác của đầu tư gián tiếp là các giao dịch chênh lệch lãi suất nhằm hưởng chênh lệch lãi suất giữa 2 đồng tiền trong khi tỷ giá ổn định. Các giao dịch này thường mang tính đầu cơ ngắn hạn cao. Với lãi suất toàn cầu sụt giảm và chính sách tỷ giá neo VND vào USD của Việt Nam trong khi lãi suất VND vẫn ở mức cao, có thể dòng vốn này sẽ chảy vào trong một số giai đoạn nhất định nhằm khai thác cơ hội chênh lệch. Trong những trường hợp thoái vốn, dòng vốn này có thể tạo áp lực tỷ giá cho VND.

Việc phát hành chứng khoán huy động vốn trên thị trường quốc tế cũng sẽ khó khăn và chi phí tăng cao. Chính phủ Việt Nam hiện có kế hoạch phát hành 1 tỷ USD và Vinashin có kế hoạch huy động 400 triệu USD trên thị trường quốc tế vào


năm 2009. Tuy nhiên, trong bối cảnh của khủng hoảng tài chính, việc thực hiện kế hoạch nêu trên sẽ gặp phải những trở ngại đáng kể trong thời gian tới.

Dòng kiều hối từ trước đến nay vẫn là một dòng ngoại tệ tương đối ổn định, ngay cả trong thời kỳ kinh tế toàn cầu có khó khăn. Trong một vài năm trở lại đây, dòng kiều hối về Việt Nam tăng mạnh, với mức doanh số 8 tỷ - 10 tỷ USD/năm. Ngoài mục đích hỗ trợ thân nhân và đầu tư vào kinh doanh, một phần không nhỏ của dòng kiều hối này được đầu tư vào chứng khoán và bất động sản - những lĩnh vực hiện nay không còn "nóng" như trước. Hơn nữa, một phần lớn nguồn kiều hối về Việt Nam lại từ nước Mỹ, nơi tăng trưởng kinh tế đang sa sút và tình trạng thất nghiệp gia tăng. Điều này khiến cho dòng kiều hối trong các năm tới có thể cũng sẽ suy giảm.

Tuy đầu tư nước ngoài được dự báo là sẽ khó khăn hơn trong những năm tới, nhưng Việt Nam có thể có những cơ hội nhất định qua cuộc khủng hoảng tài chính thế giới. Dòng vốn trên thế giới sẽ tập trung vào những nơi có môi trường chính trị và kinh doanh ổn định, mà Việt Nam lại đang có những lợi thế trong hai nhân tố này.

Hiện tại, hầu hết các nhà đầu tư vẫn cam kết nhiều vì họ tin tưởng vào tương lai và triển vọng đi lên của nền kinh tế nước ta. Nhiều nhà đầu tư cho rằng, tác động của cuộc khủng hoảng tới nền kinh tế Việt Nam chỉ ở mức độ nhất định và sẽ được khắc phục trong thời gian tới.

Một điểm thuận lợi nữa của chúng ta là các nhà đầu tư lớn như Nhật Bản, EU đã hướng vào khu vực Đông - Nam Á và có chiến lược đầu tư dài hạn trong 10 năm tới. Tại khu vực Đông - Nam Á, Nhật Bản hướng nhiều nhất vào Việt Nam với chiến lược đầu tư nhất quán từ Chính phủ cho đến các tập đoàn lớn. Các động thái gần đây của Nhật Bản đã rất rõ ràng và kiên quyết, cho dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, Việt Nam vẫn sẽ là nơi Nhật Bản phân bố lại sản xuất của họ. Nhật Bản cũng đã sáp nhập JICA và JBIC thành một quỹ viện trợ ODA khổng lồ. Mục tiêu của quỹ này cũng hướng vào Đông - Nam Á, trong đó có Việt Nam.

2.1.2.3. Về tăng trưởng kinh tế

Những tác động trực tiếp và gián tiếp nêu trên của khủng hoảng tài chính thế giới đang và sẽ ảnh hưởng đến việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế của nước ta trong năm 2008. Dự kiến tốc độ tăng trưởng GDP trong năm 2008 chỉ đạt khoảng 6,7%, thấp hơn chỉ tiêu đã được Quốc hội thông qua là 7%.


Với những tác động ban đầu của khủng hoảng tài chính thế giới đến đầu tư nước ngoài, thương mại, tài chính tiền tệ,... trong thời gian vừa qua, cũng như phạm vi ảnh hưởng của khủng hoảng đến kinh tế thế giới như đã phân tích ở trên, nền kinh tế nước ta cũng sẽ còn gặp khó khăn trong năm 2009 và các năm tiếp theo.

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, biến động của kinh tế toàn cầu sẽ ảnh hưởng đến tốc độ tăng GDP của Việt Nam. Khi kinh tế toàn cầu suy giảm trong năm 2009, những thị trường xuất khẩu lớn của chúng ta như Mỹ, Nhật Bản, EU và một số khu vực có nguy cơ bị thu hẹp, đồng thời thu hút đầu tư, cả gián tiếp và trực tiếp của chúng ta cũng sẽ bị giảm sút. Kim ngạch xuất khẩu năm 2009 dự báo sẽ tăng 13%, mức tăng thấp nhất trong nhiều năm trở lại đây. Tổng mức đầu tư toàn xã hội năm 2009 dự báo bằng 39,5% GDP, thấp hơn so với dự báo trước đây là 40% GDP. Nhiều doanh nghiệp trong nước, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ gặp khó khăn do tiêu thụ hàng hóa giảm và thiếu vốn đầu tư.

Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, kinh tế của Việt Nam năm 2009, theo dự báo, sẽ đạt mức tăng trưởng thấp hơn so với năm 2008, với tốc tăng trưởng chỉ đạt 6,23%. Giá trị gia tăng ngành công nghiệp và xây dựng dự kiến sẽ tăng trưởng khoảng 7,4%, ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản dự kiến sẽ tăng khoảng 2,8%, thấp hơn so với tốc độ tăng trưởng trong năm 2008. Ngành dịch vụ sẽ đạt mức tăng trưởng xấp xỉ năm 2008.

Năm 2010 và các năm tiếp theo, kinh tế thế giới và khu vực châu Á được dự báo khả quan hơn. Điều này sẽ tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Dự báo tăng trưởng kinh tế của nước ta sẽ phục hồi sau năm 2009, với tốc độ tăng trưởng xấp xỉ và cao hơn năm 2008.

2.1.2.4. Về xã hội:

Trong năm 2009 những vấn đề cần quan tâm hàng đầu đối với nền kinh tế Việt Nam chính là tình trạng mất việc làm, thất nghiệp gia tăng, thu nhập của người dân giảm sút. Giá của hầu hết các mặt hàng nông sản như: cà phê, chè, hạt tiêu, nhân điều, rau quả, cao su…đều giảm so với tháng trước và giảm 30% so với cùng kì năm ngoái. Giá thủy sản giảm kéo dài.Các mặt hàng công nghiệp chế biến như dệt may, da giầy, hàng điện tử linh kiện máy tính, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa đều giảm…Những khó khăn trong sản xuất kinh doanh cùng với việc giá cả nhiều mặt hàng trên thế giới giảm mạnh đã khiến nhiều doanh nghiệp thu hẹp sản xuất dẫn đến thu nhập của người lao động thấp xuống.


Nhiều ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ phát triển mạnh trong những năm qua trước hết nhờ lợi thế nguồn nhân lực dồi dào, giá nhân công rẻ.Đây cũng là một trong những nhân tố khiến ta thu hút mạnh đầu tư nước ngoài, trở thành một địa chỉ outsourcing (lấy nguồn từ nước ngoài) của nhiều hãng lớn trên thế giới và xúc tiến xuất khẩu lao động đi nhiều nơi.

Trong bối cảnh khủng hoảng toàn cầu và khó khăn kinh tế trong nước, các ngành dùng nhiều lao động ở nước ta đều bị chấn động, buộc phải thu hẹp sản xuất kinh doanh, cắt giảm việc làm. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài cũng không thể thực hiện các cam kết của họ ở Việt Nam, thậm chí có những nhà đầu tư đã lặng lẽ đóng cửa nhà máy ra đi.Các hợp đồng outcourcing giảm mạnh khi các nước đều lo tạo thêm việc làm cho người dân nước mình, và người lao động ở các nước sẵn sang chấp nhận mọi việc làm có thể tạo thu nhập, kể cả thu nhập thấp hơn, chứ không “kén các chọn canh” như trước.‌

Mất việc làm, thất nghiệp gia tăng tất yếu dẫn tới giảm thu nhập của người dân, trước hết là các gia đình có người trong diện này. Mặt khác, doanh nghiệp và các đơn vị sử dụng lao động nói chung đều gặp khó khăn nên gần như không thể tăng tiền công, tiền lương cho người lao động. Hàng triệu hộ kinh doanh nhỏ, hộ nông dân, làng nghề cũng khó tiêu thụ sản phẩm hơn, nguồn thu của họ teo lại. Thu nhập của người dân giảm sút khiến cho có thể diện nghèo lại càng tăng lên, tiến độ xóa đói giảm nghèo của chúng ta chậm lại. Sức mua của thị trường tiêu dùng trong nước sẽ giảm sút khi thu nhập giảm và ai cũng phải “thắt lưng buộc bụng”. Điều đó bất lợi cho phát triển kinh tế.

2.2 Hiện trạng của xuất khẩu, nhập khẩu Việt Nam trước và trong thời kì khủng hoảng

2.2.1 Về cơ chế, chính sách xuất khẩu, nhập khẩu

Cơ chế quản lý xuất nhập khẩu bao gồm ba thành tố cơ bản là : Chủ thể điều chỉnh, đối tượng điều chỉnh, công cụ điều chỉnh. Để tạo điều kiện thực hiện thành công chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thời kì 2001- 2010 và chủ động hội nhập quốc tế việc hoàn thiện. Nhà nước liên tục đổi mới, bổ sung cơ chế chính sách xuất nhập khẩu cho phù hợp với điều kiện thực tế trong giai đoạn hiện nay theo các hướng:

Rà soát lại hệ thống luật để điều chỉnh các qui định không còn phù hợp hoặc chưa được rõ để phù hợp với cá qui định của WTO. Tiếp tục hoàn thiện các văn bản luật để điều chỉnh các quan hệ kinh tế mới phát sinh như: Luật cạnh tranh và chống độc quyền, Luật chống bán phá giá và chống trợ cấp, Luật phòng vệ


khẩn cấp, Luật chống bán phá giá nội bộ.

Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn hàng hóa - dịch vụ xuất nhập khẩu cho phù hợp với đòi hỏi thị trường, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa - dịch vụ

Trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, kiên trì chính sách nhiều thành phần, trong đó kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo

Tiếp tục cải cách hành chính trong lĩnh vực thương mại theo hướng: xóa bỏ các thủ tục phiền hà, ổn định môi trường pháp lý để tạo tâm lý tin tưởng cho các doanh nghiệp bỏ vốn kinh doanh lâu dài, phấn đấu làm cho chính sách thuế, đặc biệt là thuế xuất nhập khẩu có định hướng nhất quán không gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc tính toán hiệu quả kinh doanh, giảm dần tiến tới ngừng áp dụng các lệnh cấm, lệnh ngừng nhập khẩu tạm thời, cố gắng thuế hóa các biện pháp phi thuế quan.

Điều hành lãi suất, tỷ giá hối đoái một cách linh hoạt để vừa bảo đảm sự ổn định kinh tế xã hội, vừa có lợi cho xuất khẩu hạn chế nhập khẩu.

Chủ động thay đổi căn bản các phương thức quản lý nhập khẩu: Mở rộng sử dụng các công cụ phi thuế “hợp lệ” như các hàng rào tiêu chuẩn kĩ thuật, vệ sinh, môi trường…, hạn ngạch thuế quan, thuế tuyệt đối, thuế mùa vụ, thuế chống phá giá, chống trợ cấp. Cải cách biểu thuế và cải cách công tác thu thuế, bỏ chế độ tính thuế theo giá tối thiểu.

Tích cực sắp xếp lại các doanh nghiệp, các ngành hàng kinh doanh, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước để nâng cao hiệu quả kinh doanh, công bố rõ ràng lộ trình dỡ bỏ hàng rào bảo hộ, khắc phục những bất hợp lý trong chính sách bảo hộ, cân đối lại đối tượng bảo hộ theo hướng chú trọng bảo hộ nông sản.

Với những định hướng rõ ràng như vậy nhà nước ta đã ban hành rất nhiều những qui định, điều lệ tương ứng với các công cụ điều chỉnh xuất nhập khẩu.

- Với chính sách nhập khẩu:

Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu của Việt Nam hiện hành (Luật số 45/2005/QH-11) qui định áp dụng ba loại thuế suất đối với hàng nhập khẩu tùy thuộc vào các đối tác khác nhau đó là: Thuế suất thông thường, Thuế suất ưu đãi, Thuế suất ưu đãi đặc biệt

Trong thông tư 113/2005/TT- BTC ngày 15/12/2005 hướng dẫn thi hành Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005 có qui định cụ thể về cách xác định trị giá tính thuế theo 6 cách mà Hiệp định trị giá hải quan của WTO qui định.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 07/05/2022