Mối Liên Quan Giữa Tiền Sử Khi Sinh Và Nguy Cơ Nghe Kém Ở Trẻ


Tỷ lệ trẻ có mẹ có các yếu tố tiền sử mẹ bị bệnh trong quá trình mang thai bao gồm tiền sử mẹ bị cúm, mẹ bị rubella và mẹ bị sốt ở nhóm trẻ nghe kém đều cao hơn nhóm chứng, tuy nhiên sự khác biệt về tỷ lệ trẻ có mẹ bị cúm và mẹ bị sốt trong quá trình mang thai ở 2 nhóm không có ý nghĩa thống kê (OR=3,03 [0,85- 10,84] và OR =0,2 [0,36–44,49]). Tiền sử mẹ bị Rubella trong quá trình mang thai là yếu tố nguy cơ của nghe kém. Những trẻ có mẹ có bị Rubella trong quá trình mang thai có nguy cơ bị nghe kém cao gấp 4,75 lần trẻ không có mẹ bị Rubella (OR=4,75 [1,22–18,49]). Ở cả nhóm bệnh và nhóm chứng, không trẻ nào có người thân trong gia đình có người bị nghe kém hoặc điếc.


3.2.2.2 Các yếu tố khi sinh


Bảng 3.20: Mối liên quan giữa tiền sử khi sinh và nguy cơ nghe kém ở trẻ



Yếu tố

Nghe kém

(314)

Không nghe kém

(628)


OR (95% CI)

Số

lượng


(%)

Số

lượng


(%)

Tuổi thai

Thiếu tháng

(<37 tuần)


7


2,2


3


0,5


4,75


(1,22–18,49)

Đủ tháng

(≥37 tuần)


307


97,8


625


99,5


1

Cân nặng khi sinh

< 2500

gam


10


3,2


6


1,0

3,41


(1,22 – 9,47)

≥ 2500

gam


304


96,8


624


99,4

1

Cách thức sinh

Sinh thường


117


37,3


260


41,4

0,84


(0,63-1,11)

Can thiệp

197

62,7

368

58,6

1

Thở O2

sau sinh

14

4,5

2

0,3


14,70


(3,32-65,11)


Không


300


95,5


626


99,7

Vàng da sau

sinh

25

8,0

6

1,0


8,96


(3,63-22,09)

Không

279

92,0

622

99,0

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.

Một số đặc điểm và yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ em từ 2 đến 5 tuổi tại các trường mẫu giáo nội thành Hà Nội - 10


Kết quả phân tích đơn biến mối liên quan giữa các yếu tố khi sinh với nghe kém của trẻ cho thấy tuổi thai khi sinh là yếu tố nguy cơ tới nghe kém ở trẻ. So với những trẻ sinh đủ tháng (≥37 tuần tuổi), những trẻ sinh thiếu tháng (<37 tuần tuổi) có nguy cơ bị nghe kém cao hơn 4,75 lần (OR=4,75 [1,22–18,49]). Cân nặng khi sinh cũng là yếu tố nguy cơ của nghe kém, những trẻ khi sinh có cân nặng <2500g có nguy cơ bị mắc bệnh cao gấp hơn 3 lần so với những trẻ khi sinh có cân nặng ≥ 2500g (OR=3,41 [1,22 – 9,47]). Những trẻ phải can thiệp thở O2, bị ngạt sau khi sinh là yếu tố nguy cơ quan trọng của nghe kém. So với những những trẻ không phải thở Oxy sau khi sinh, những trẻ có can thiệp thở O2 sau khi sinh có khả năng bị nghe kém cao gấp gần 15 lần (OR=14,70 [3,32- 65,11]. Những trẻ bị vàng da sau khi sinh phải điều trị có nguy cơ bị nghe kém cao hơn 8,96 lần so với những trẻ không bị (95%CI: 3,63-22,09).

Nghiên cứu này cho thấy có sự khác biệt giữa tỷ lệ sinh thường hoặc can thiệp trong khi sinh ở những trẻ trong nghiên cứu. Những trẻ không bị nghe kém có tỷ lệ sinh can thiệp cao hơn những trẻ bị nghe kém, 41,4% so với 37,3%, tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê với OR=0,84 (0,63-1,11).


3.2.2.3 Các yếu tố sau sinh


Bảng 3.21: Mối liên quan giữa các yếu tố sau sinh và nguy cơ nghe kém ở trẻ



Bệnh ở trẻ em

Nghe kém

( 314 )

Không nghe kém

( 628 )


OR (95% CI)

Số

lượng

Tỷ lệ

(%)

Số

lượng

Tỷ lệ

(%)


Sởi

1

0,2

0

0


--

Không

313

99,8

628

100

Sốt phát ban

6

1,9

4

0,6

3,03


(0,85-10,84)

Không

308

98,1

624

99,4


Ho gà

0

0

0

0


--

Không

314

100

628

100


Bạch hầu

0

0

0

0


--

Không

314

100

628

100


Quai bị

0

0

0

0


--

Không

314

100

628

100


Viêm não

3

1,0

1

0,2

6,04


(0,62-58,38)

Không

311

99,0

627

99,8

Viêm màng não

12

3,8

2

0,3

12,43


(2,76-55,92)

Không

302

96,2

626

99,7

Trẻ bị bệnh tai

177

56,4

70

11,1

10,29


(7,37-14,38)

Không

137

43,6

558

88,9


Các yếu tố sau sinh ở trẻ em từ 2 tuổi đến 5 tuổi bao gồm nhiều yếu tố về tình trạng mắc một số bệnh của trẻ. Những yếu tố như trẻ bị sởi, sốt phát ban, ho gà, bạch hầu, quai bị và VN không phải là các yếu tố liên quan tới nghe kém ở trẻ. Các yếu tố trẻ bị vàng da sau sinh phải điều trị, trẻ bị VMN và trẻ bị bệnh ở tai là các yếu tố có liên quan tới nghe kém ở trẻ em. Trẻ bị VMN có nguy cơ bị nghe kém cao hơn những trẻ không bị viêm màng não 12,43 lần, OR=12,43 (2,76-55,92). Bị bệnh ở tai là yếu tố nguy cơ của nghe kém, cao gấp hơn 10 lần so với những trẻ không bị bệnh ở tai, OR=10,29 (7,37-14,38).

3.2.2.4 Mối liên quan giữa các yếu tố trước sinh, trong sinh và sau sinh tới nghe kém ở trẻ - mô hình phân tích hồi quy đa biến

Bảng 3.22: Mối liên quan giữa các yếu tố trước sinh, trong sinh và sau sinh tới nghe kém ở trẻ - mô hình phân tích hồi quy đa biến, Mô hình 1


Yếu tố

OR hiệu chỉnh

95%CI

Mẹ bị Rubella khi mang thai

12,05

2,98 – 48,65

Cân nặng khi sinh

2,53

0,64 - 9,99

Tuổi thai

3,02

0,56 - 16,118

Trẻ phải thở Oxy sau sinh

8,93

1,61 - 49,32

Trẻ bị vàng da sau sinh phải điều trị

13,41

5,05- 35,57

Trẻ bị viêm màng não

27,15

5,80 - 126,98

Trẻ bị bệnh tai

14,22

9,97 - 20,28


Các yếu tố tiền sử trước sinh, trong sinh và sau sinh có ý nghĩa thống kê với nghe kém ở trẻ em trong các mô hình phân tích đơn biến tiếp tục được đưa vào trong mô hình phân tích đa biến tìm yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ. Trong số 7 yếu tố có ý nghĩa thống kê với nghe kém trong các mô hình phân tích đơn


biến, có 2 yếu tố là cân nặng khi sinh và tuổi thai của trẻ đã không có ý nghĩa thống kê trong mô hình phân tích đa biến, các yếu tố còn lại bao gồm mẹ bị Rubella khi mang thai trẻ, trẻ phải can thiệp thở Oxy sau sinh, trẻ bị vàng da sau sinh, trẻ bị viêm màng não và trẻ bị bệnh ở tai đều có ý nghĩa thống kê với nghe kém ở trẻ.

Bảng 3.23: Mối liên quan giữa các yếu tố trước sinh, trong sinh và sau sinh tới nghe kém ở trẻ - mô hình phân tích hồi quy đa biến, Mô hình 2


Yếu tố

OR hiệu chỉnh

95%CI

Mẹ bị Rubella khi mang thai

11,73

2,90 – 47,33

Trẻ phải thở Oxy sau sinh

13,89

2,72 – 70,82

Trẻ bị vàng da sau sinh phải điều trị

13,47

5,09 – 35,59

Trẻ bị viêm màng não

26,44

5,65 – 123,59

Trẻ bị bệnh tai

14,03

9,85 – 19,97


Các yếu tố có ý nghĩa thống kê trong mô hình phân tích hồi quy đa biến ở trên tiếp tục được đưa vào mô hình phân tích hồi quy đa biến nhằm xác định yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ em. Kết quả cho thấy cả 5 yếu tố đều là yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ em. Trẻ có mẹ bị Rubella khi mang thai có khả năng bị nghe kém cao gấp 11,73 lần so với trẻ có mẹ không bị (95%CI: 2,90 – 47,33). Các yếu tố trong sinh bao gồm trẻ phải thở Oxy sau sinh và trẻ bị vàng da sau sinh phải điều trị đều là yếu tố nguy cơ của nghe kém. Trẻ phải thở Oxy sau sinh hoặc bị vàng da sau sinh phải điều trị đều có nguy cơ bị nghe kém cao hơn 13 lần so với những trẻ không bị.

Trẻ bị VMN và trẻ bị bệnh tai là hai yếu tố sau sinh có liên quan tới nghe kém ở trẻ. Những trẻ bị VMN có nguy cơ nghe kém cao hơn 26,44 lần so với những trẻ không bị (OR=26,44 [5,65 – 123,59]. Tương tự, trẻ bị bệnh ở tai có nguy cơ nghe kém cao gấp hơn 14 lần trẻ không bị bệnh ở tai (OR=14,03 [9,85 – 19,97].


CHƯƠNG 4‌


BÀN LUẬN‌

4.1. Đặc điểm nghe kém ở trẻ mẫu giáo nội thành Hà Nội‌


4.1.1 Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu‌

Trong nghiên cứu này 7191 trẻ từ 2 đến 5 tuổi ở các trường mẫu giáo thuộc 5 quận là Ba Đình, Tây Hồ, Đống Đa, Thanh Xuân và Hoàng Mai được sàng lọc nghe kém. Trong số trẻ được sàng lọc nghe kém, trẻ 2 tuổi có số lượng thấp nhất (9,7%) và số lượng trẻ tăng dần theo tuổi, cao nhất ở trẻ 5 tuổi có số lượng cao nhất (33,7%), tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Sự khác biệt về số lượng trẻ ở các lứa tuổi khác nhau có thể do tuổi bắt đầu học của trẻ em ở các trường mẫu giáo công lập. Ở các trường mẫu giáo công lập chỉ nhận trẻ từ 2 tuổi trở lên, do đó số lượng trẻ em ở các trường mẫu giáo tăng dần theo tuổi. Bên cạnh đó, có thể nhiều gia đình chỉ cho trẻ đến các trường mẫu giáo khi trẻ trên 2 tuổi. Đây có thể là nguyên nhân số trẻ 2 tuổi ở các trường mẫu giáo công lập ở Hà Nội thấp nhất. Trong nghiên cứu này, trẻ em nam chiếm tỷ lệ cao hơn trẻ em nữ, 52,4%so với 47,6%. Kết quả này cũng phù hợp với kết quả sàng lọc giảm thính lực ở trẻ sơ sinh ở bệnh viện Phụ sản Hà Nội năm 2005 với độ bao phủ 92,0% số trẻ sơ sinh được sàng lọc. Ở nghiên cứu sàng lọc trẻ sơ sinh giảm thính lực trên cho thấy số trẻ em nam và nữ được sàng lọc lần lượt là 53,2% và 46,8% [37]. Kết quả khảo sát tình hình phản ứng thính giác trẻ sơ sinh Hà Nội của tác giả Lê Thị Lan [21] cũng cho thấy tỷ lệ trẻ sơ sinh là nam giới cao hơn tỷ lệ trẻ sơ sinh là nữ giới, 52,66% so với 47,34%. Tương tự như vậy, trong nghiên cứu tình hình suy giảm thính lực tại các trường tiểu học thành phố Hải Phòng cũng cho thấy tỷ lệ nam giới cao hơn nữ giới (55,0% và 45,0%). Đây có thể do chênh lệch giới tính nam nữ ở nước ta trong những năm gần đây, đặc biệt ở khu vực đồng bằng sông Hồng. Theo kết quả


tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009, tỷ số giới tính nam:nữ khi sinh ở vùng đồng bằng sông Hồng năm 2008 là 115:100 trẻ [32].

4.1.2 Tỷ lệ nghe kém qua sàng lọc bằng phương pháp OAE‌

Chương trình sàng lọc giảm thính lực cho trẻ đã trở thành chương trình quốc gia ở nhiều nước trên thế giới [82], [111]. Tuy nghiên các chương trình này chỉ nhằm sàng lọc nghe kém, giảm thính lực ở trẻ sơ sinh hoặc những trẻ sơ sinh có yếu tố nguy cơ cao, ít có các chương trình sàng lọc giảm thính lực cho trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo hoặc trẻ lớn. Mặc dù vẫn còn những hạn chế nhất định, phương pháp đo âm ốc tai kích thích là phương pháp sàng lọc giảm thính lực có nhiều ưu điểm như đơn giản, dễ thực hiện, không đòi hỏi người đo có trình độ chuyên sâu về thính lực học, không đòi hỏi sự phối hợp từ phía trẻ, giá thành thấp… Bên cạnh đó phương pháp này có độ nhạy và độ đặc hiệu cao [38], [69]. Chính vì vậy, đây là phương pháp được khuyến cáo trong sàng lọc giảm thính lực ở cộng đồng. Đây cũng là phương pháp đã và đang được sử dụng rộng rãi ở nhiều quốc gia trên thế giới như Singapo, Trung Quốc, Mỹ… [82], [74].

Phương pháp đo âm ốc tai có thể cho những kết quả khác nhau như “Pass” hay còn gọi là kết quả dương tính (OAE(+) tức là khả năng nghe bình thường, nghi ngờ có giảm thính lực, hoặc không đo được hoặc có kết quả đo OAE âm tính hay còn gọi là “Refer” tức là những trẻ có khả năng giảm thính lực. Kết quả OAE được coi là âm tính khi không đáp ứng với âm thanh có tần số dao động từ 500-4.000 Hz và cường độ 30dB. Tuy nhiên kết quả OAE (-) không có nghĩa là trẻ bị nghe kém mà chỉ gợi ý khả năng trẻ bị nghe kém, do đó cần phải được kiểm tra lại bằng các xét nghiệm thính giác chuyên sâu hơn [38].

Trong nghiên cứu này, trẻ được tiến hành sàng lọc nghe kém bằng phương pháp đo âm ốc tai hai lần tại cộng đồng và tại phòng cách âm chuẩn tại Khoa Thính học – Bệnh viện Nhi Trung ương đối với những trẻ có kết quả OAE (-) lần 1. Kết quả sàng lọc giảm thính lực bằng đo âm ốc tai kích thích lần 1 với

7.191 trẻ mẫu giáo cho thấy có 337 trẻ có kết quả âm ốc tai kích thích âm tính

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 09/05/2022