Đặc Điểm Nghe Kém Ở Trẻ Mẫu Giáo Tại Các Trường Mẫu Giáo Công Lập Nội Thành Hà Nội Năm 2011 – 2012.‌

88


Trung ương cho thấy di chứng sớm ở bệnh nhân VMN do Streptococcus gây giảm hoặc mất thính lực xảy ra ở 41,33% bệnh nhân [3]. Nghiên cứu bệnh chứng tại Mexico cho thấy nghe kém tiếp nhận là loại nghe kém thường gặp ở trẻ phải điều trị tại các đơn vị điều trị tích cực. VMN là một yếu tố nguy cơ quan trọng của những trẻ nghe kém này, OR= 4,368, 95% CI:1,7-10,9. Tương tự như vậy nghiên cứu bệnh chứng những trẻ phải điều trị tại đơn vị điều trị tích cực tại bệnh viện nhi Sophia, Hà Lan cho thấy viêm màng não là yếu tố nguy cơ của nghe kém tiếp nhận ở những trẻ sơ sinh này [61].

VMN nhiễm khuẩn (VMNNK) là bệnh nhiễm trùng cấp tính hệ thần kinh trung ương. Bệnh có thể dẫn đến tử vong nhanh hoặc để lại di chứng nặng nề. Cho đến nay bệnh vẫn còn phổ biến trên toàn cầu, đặc biệt tại các nước đang phát triển. VMNNK do một số loại vi khuẩn khác nhau gây nên, nhưng chủ yếu vẫn là Haemophilus influenzae type b (Hib), phế cầu và não mô cầu[4]. Nghiên cứu tại bệnh viện Nhi Trung ương giai đoạn 2005-2009 có 1468 trẻ em có chẩn đoán lâm sàng là VMNNK, trong đó có 163 trường hợp xác định được vi khuẩn gây bệnh, chiếm 11,1%. Haemophilus influenzae là căn nguyên phổ biến nhất ở các trường hợp này, chiếm 46,6% trong tổng số các nguyên nhân gây VMN, sau đó là VMN do phế cầu, chiếm 23,9%. Viêm màng não do phế cầu gây tỷ lệ tử vong là 9,4% và 37,5% có di chứng tại thời điểm xuất viện [16]. VMN có thể gặp ở mọi lứa tuổi nhưng thường xuất hiện ở trẻ dưới 12 tháng tuổi [17]. Nghiên cứu tại Khoa Nhiễm-Thần kinh Bệnh viện Nhi đồng I từ tháng 10 năm 2005 đến tháng 12 năm 2008 cho thấy có 135 bệnh nhân được chẩn đoán VMN mủ, có đó có 50,4% bệnh nhân bị VMN mủ do Hib. Tương tự như nghiên cứu tại Bệnh viện Nhi trung ương, trẻ từ 3-12 tháng tuổi là lứa tuổi thường bị bệnh này nhất [4].

Nghe kém liên quan tới VMN là một cơ chế phức tạp, trong suốt quá trình viêm đã gây phù não, màng não, làm giảm oxy tới các tế bào thần kinh. Từ đó gây tổn thương không hồi phục của các tế bào thần kinh. Trẻ em bị VMNM có nguy cơ

89


bị điếc cao nhất. Nghiên cứu tổng quan gần đây cho thấy viêm màng não do vi khuẩn là nguyên nhân phổ biến nhất của nghe kém tiếp nhận mắc phải, chiếm 60,0-90,0% các nguyên nhân nghe kém tiếp nhận mắc phải. Mặc dù với sự tiến bộ của khoa học trong điều trị kháng sinh, viêm màng não do vi khuẩn vẫn gây tổn thương lâu dài hệ thần kinh thính giác. Nghe kém có thể xảy ra trong suốt quá trình viêm màng não mủ cấp, thậm chí 48 giờ sau khi bị bệnh. Tuy nhiên, nghe kém cũng không phải là triệu chứng thường gặp trước khi điều trị. Với những tổn thương chính ở ốc tai (tổn thương tế bào lông, tế bào nâng đỡ, vịnh tiền đình và vịnh giữa) và các hạch thần kinh ốc tai. Các nghiên cứu đều cho thấy nghe kém là nguyên nhân của VMNM lan rộng hoặc đám rối thần kinh. Những tổn thương sớm ở vòng đáy của ốc tai, vịnh nhĩ, màng đáy có thể gây lên điếc sâu ở tần số cao. Trên người, thần kinh ốc tai đoạn nằm trong ốc tai là con đường thứ 2 dẫn đến nhiễm trùng lan rộng. Sự viêm mủ của mê đạo hay sự phá hủy của các cơ quan ở tai trong và sự cốt hóa ốc tai gây điếc vĩnh viễn cho một số ít bệnh nhân. Nhiễm trùng nặng cũng nhanh chóng lan đến tai trong và các cytokines như TNF –alpha (Tumor Necrosis Factor alpha, yếu tố hoại tử), có vai trò quan trọng gây nghe kém trong viêm màng não. Chất oxy hóa góp phần phá hủy các đường dẫn máu và sản xuất ra tế bào cytotoxic ảnh hưởng trực tiếp lên tế bào lông và tế bào hạch xoắn thần kinh ốc tai [71]. Bên cạnh đó việc sử dụng một số nhóm kháng sinh trong điều trị bệnh VMN có thể góp phần tăng nguy cơ gây nghe kém ở trẻ em [63].

4.2.3.2. Trẻ bị bệnh ở tai


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.

Theo báo cáo của TCYTTG, viêm tai mạn tính là nguyên nhân hàng đầu gây nghe kém, đặc biệt ở các nước đang phát triển. Nước ta là quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á, nơi có tỷ lệ viêm tai mạn tính cao nhất trên toàn thế giới. Đây cũng là khu vực có tỷ lệ nghe kém ở trẻ em cao thứ 2 thế giới, sau khu vực châu Phi [129]. Tương tự các nghiên cứu trước đây về mối liên quan giữa các bệnh ở tai như viêm tai giữa, viêm tai thanh dịch…với nghe kém, trong nghiên


Một số đặc điểm và yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ em từ 2 đến 5 tuổi tại các trường mẫu giáo nội thành Hà Nội - 13

cứu của chúng tôi, mô hình phân tích hồi quy logistic đa biến cho thấy trẻ bị các bệnh ở tai có nguy cơ bị nghe kém cao hơn 14 lần trẻ không bị bệnh ở tai (95%CI : 9,85-19,97). Chúng tôi nhận thấy 56,4% trẻ ở nhóm bệnh đã từng bị bệnh ở tai, trong khi đó tỷ lệ này ở nhóm chứng là 11,1%.

Các nghiên cứu dịch tễ học cho thấy bệnh ở tai là bệnh thường gặp ở lứa tuổi trẻ em, đặc biệt là trẻ mẫu giáo. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Hoài An (2003) tại một số phường của Hà Nội cho thấy tỷ lệ mắc viêm tai giữa ứ dịch kéo dài là 8,9%, trong đó trẻ 2 tuổi có tỷ lệ mắc cao nhất, chiếm 12,21%.Đặc biệt nghiên cứu ở miền Nam nước ta cho thấy trẻ 2 tuổi có tỷ viêm tai ứ dịch rất cao, 22,0% [67]. Theo y văn, VTG ứ dịch có thể tiến triển đến các bệnh lý mãn tính của tai giữa: túi co kéo màng nhĩ, xẹp nhĩ, viêm tai xơ dính, xơ nhĩ, viêm tai giữa mạn tính thường. Bệnh cũng có thế làm nền cho những đợt tái phát của viêm tai giữa cấp tính từ đó gây ra các biến chứng nguy hiểm. VTG ứ dịch cũng là nguyên nhân thường gặp nhất làm giảm sức nghe của trẻ [2].Bên cạnh đó viêm tai giữa mạn (VTGM) và viêm tai xương chũm (VTXC) cũng là hay gặp ở nước ta, chiếm tỷ lệ 2-5%. VTGM và VTXC gây suy giảm sức nghe, làm ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng giao tiếp, học tập, lao động của bệnh nhân và có thể dẫn đến biến chứng đe dọa đến tính mạng [25], [18]. VTXC không những làm giảm sức nghe mà còn gây ra những biến chứng nguy hiểm. Một trong những biến chứng của VTXC là VMN, qua đó có thể gián tiếp gây giảm thính lực ở trẻ em [18].


KẾT LUẬN‌


1. Đặc điểm nghe kém ở trẻ mẫu giáo tại các trường mẫu giáo công lập nội thành Hà Nội năm 2011 – 2012.‌

1.1 Tỷ lệ nghe kém ở trẻ mẫu giáo ở nội thành Hà Nội năm 2011- 2012 là 4,4%, trong đó tỷ lệ nghe kém ở trẻ em nam và trẻ em nữ lần lượt là 4,7% và 4,0%.

1.2 Nghe kém cả hai tai là hình thức nghe kém phổ biến nhất, chiếm 70,1%. Chỉ nghe kém một tai phải hoặc tai trái chiếm tỷ lệ thấp, lần lượt là 13,0% và 16,9%.

1.3 Nghe kém mức độ nhẹ chiếm 41,9%, nghe kém vừa chiếm 41,7%. Nghe kém nặng đến sâu chiếm 12,4% trong tổng số trẻ nghe kém.

1.4 Nghe kém dẫn truyền là hình thức nghe kém thường gặp nhất ở trẻ mẫu giáo ở nội thành Hà Nội bị nghe kém, chiếm hơn 70% tổng số nghe kém. Nghe kém tiếp nhận và hỗn hợp chiếm tỷ lệ lần lượt là 12,7% và 16,9%.

2. Một số yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ em từ 2 tuổi đến 5 tuổi khu vực nội thành Hà Nội

2.1 Mẹ bị nhiễm rubella trong khi mang thai (OR = 11,73 , 95%CI: 2,90 – 47,33).

2.2 Trẻ phải can thiệp thở Oxy sau khi sinh (OR = 13,89 , 95%CI: 2,72 – 70,82).

2.3 Trẻ bị vàng da sau sinh bất thường phải điều trị (OR = 13,47 , 95%CI: 5,09 – 35,59).

2.4 Trẻ bị viêm màng não (OR = 26,44 , 95%CI: 5,65 – 123,59). 2.5 Trẻ bị bệnh ở tai (OR = 14,03 , 95%CI: 9,85 – 19,97).


KHUYẾN NGHỊ‌


1. Những trẻ có các yếu tố nguy cơ nghe kém như mẹ bị nhiễm rubella, thở oxy sau sinh, vàng da bất thường sau sinh, viêm màng não và các bệnh ở tai cần được kiểm tra thính lực sớm tại các Trung tâm thính học.

2. Cần đưa các hoạt động sàng lọc trẻ nghe kém thành một chương trình trong những nội dung chăm sóc sức khỏe trẻ em của các ngành y tế, giáo dục, dân số và kế hoạch hóa gia đình.


NHỮNG ĐÓNG GÓP CHO KHOA HỌC CỦA NGHIÊN CỨU

Đây là nghiên cứu chuyên ngành dịch tễ học đầu tiên làm tại cộng đồng với cỡ mẫu hơn 7000 trẻ nhằm xác định đặc điểm và các yếu tố nguy cơ nghe kém ở trẻ mẫu giáo từ 2 tuổi đến 5 tuổi ở nội thành Hà Nội. Kết quả nghiên cứu này có ý nghĩa quan trọng trong việc dự phòng và can thiệp nghe kém cho trẻ em.

Hoạt động sàng lọc nghe kém sớm cho tất cả trẻ trong lứa tuổi nhà trẻ và mẫu giáo là cơ sở để phát triển kế hoạch sàng lọc nghe kém cho trẻ sơ sinh và lập kế hoạch can thiệp, phục hồi chức năng phù hợp cho những trẻ bị nghe kém, giúp trẻ phát triển toàn diện. Đây cũng là cơ sở để các trung tâm truyền thông, các đơn vị khám chữa bệnh xây dựng các thông điệp, nội dung tư vấn cần phải có cho cộng đồng. Những trẻ có các yếu tố nguy cơ cao như mẹ nhiễm rubella, can thiệp thở oxy sau khi sinh, vàng da bất thường sau sinh, VMN cần được làm các xét nghiệm thính học phát hiện nghe kém tại các cơ sở thính học chuyên sâu.

Kết quả xác định các yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ mẫu giáo từ 2-5 tuổi tại thành phố Hà Nội là cơ sở khoa học, cung cấp các chứng cứ góp phần xây dựng kế hoạch cho ngành y tế, giáo dục, dân số và kế hoạch hóa gia đình trong công tác dự phòng nghe kém cấp 1 ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ ở nước ta.

Kết quả nghiên cứu cũng khẳng định được “nghiệm pháp đo âm ốc tai” để sàng lọc trẻ nghe kém tại các trường mẫu giáo có tính khả thi cao. Nếu được chuẩn bị tốt về phần kỹ thuật sẽ giảm được áp lực công việc tại bệnh viện, được sự chấp nhận của cộng đồng, sự hưởng ứng của các trường mẫu giáo và gia đình trẻ.

CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ


1. Nguyễn Tuyết Xương, Nguyễn Anh Dũng, Khu Thị Khánh Dung (2014), “Tổng quan các nguyên nhân nghe kém ở trẻ em”, Tạp chí Y học thực hành, 1(902), tr. 29-23

2. Nguyễn Tuyết Xương, Nguyễn Anh Dũng, Khu Thị Khánh Dung (2014), “Tỷ lệ nghe kém và một số đặc điểm nghe kém ở trẻ từ 2 – 5 tuổi tại các trường mẫu giáo công lập nội thành Hà Nội”, Tạp chí Y học Việt Nam, 1 (414), tr.15-19

3. Nguyễn Tuyết Xương, Nguyễn Anh Dũng, Khu Thị Khánh Dung , Nguyễn Đức Trọng (2014), “Các yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ từ 2 đến 5 tuổi tại các trường mẫu giáo công lập nội thành Hà Nội”, Tạp chí Y học dự phòng, tập XXIV, 2(151) , tr.76-80

TÀI LIỆU THAM KHẢO‌

Tài liệu tiếng Việt


1. Nguyễn Hoài An (2005), "Nghiên cứu đặc điểm viêm tai giữa ứ dịch ở trẻ em một số phường tại Hà Nội", Nội san Tai Mũi Họng, 3, tr. 1-9.

2. Nguyễn Thị Hoài An (2003), Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ học viêm tai giữa ứ dịch ở trẻ em phường Trung Tự và một số phường khác thuộc Hà Nội, Luận án Tiến sĩ Y học, Đại học Y Hà Nội, Hà Nội.

3. Đỗ Tuấn Anh và Nguyễn Hồng Quảng (2013), "Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và di chứng sớm ở bệnh nhân viêm màng não do Streptococcus suis", Tạp chí Y học thực hành, 860(3), tr. 8-11.

4. Tạ Ngọc Ấn, Đoàn Thị Ngọc Diệp và Trương Hữu Khanh (2010), "Đặc điểm của viêm màng não mủ do Haemophilus Influenzae type b tai bệnh viện Nhi đồng I từ 2005-2008", Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí Minh, 14(1), tr. 39-43.

5. Nguyễn Huy Bạo và Nguyễn Công Nghĩa (2010), "Sàng lọc mất thính lực (giảm khả năng nghe hoặc điếc) bẩm sinh ở sơ sinh", Tạp chí Y học, 14(2), tr. 19-22.

6. Nguyễn Quảng Bắc (2012), Nghiên cứu tình trạng nhiễm Rubella ở phụ nữ mang thai có nguy cơ và hội chứng rubella bẩm sinh tại bệnh viện phụ sản trung ương, Luận án tiến sỹ Y học, Đại học Y Hà Nội, Hà Nội.

7. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Unicef (2004), Phân tích tình hình trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, Nhà xuất bản Lao động - Xã hội, Hà Nội.

8. Lưỡng Sỹ Cẩn (1995), Điếc và nghễnh ngãng, một số điểm lịch sử về chuyên môn kỹ thuật, Nội san Tai Mũi Họng Hà Nội.

9. Phạm Thị Cơi và Phạm Tiến Dũng (2004), Bước đầu đánh giá vai trò của âm ốc tai trong thính học tại cộng đồng, nghiên cứu 3 tỉnh phía Bắc: Bắc ninh, Thái nguyên, Phú thọ, Kỷ yếu công trình nghiên cứu khoa học 1969-2004.

10. Phạm Tiến Dũng (2002), Bước đầu nghiên cứu vai trò của đáp ứng thính giác thân não trong chuẩn đoán nghe kém tiếp âm một bên Luận văn tốt nghiệp Bác sỹ nội trú, Đại học Y Hà Nội, Hà Nội.

11. Dự án tiêm chủng mở rộng (2012), Thành quả 25 năm tiêm chủng mở rộng ở Việt Nam, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.

Xem tất cả 137 trang.

Ngày đăng: 09/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí