Cuộc Sống Đơn Sơ Nhưng Phong Phú Và Giàu Bản Sắc


đánh Mỹ ngoài mặt trận: “Đi gặp giặc Mỹ giữa đường/ Anh trai Mông đánh như sét đánh chó/ Đi gặp giặc nguỵ giữa lối/ Anh trai Mông đánh như sét đánh rắn”. Bản tính chân thực của người Mông cũng hồn nhiên đi vào thơ Mông hiện đại, và chính nó đã trở thành một nét bản sắc để người đọc thêm cảm thấy quí mến thơ ca Mông.

Con người dân tộc Mông không chỉ chân thật, chất phác đến hồn nhiên mà còn mạnh mẽ đến quyết liệt. Mạnh mẽ từ bước đi chắc nịch với “đôi chân trần đạp trên đá sắc” (Mã A Lềnh). Mạnh mẽ trong lao động sản xuất để làm ra từng bắp ngô, hạt thóc nơi đỉnh núi cao nguyên khắc nghiệt: “Muốn bật đất lên trời” để mà “Be bờ ruộng bậc thang mỗi năm một vụ" (Mã Én Hằng). Không khuất phục là bản lĩnh của người Mông đã được kiểm chứng từ trong lịch sử bằng các cuộc khởi nghĩa chống lại sự áp bức, đô hộ của người Hán, người Mãn. Ý chí mạnh mẽ cũng chính là một thứ vũ khí được tôi luyện từ bản năng sinh tồn của người Mông trước sự đe dọa của thú dữ và thiên nhiên. Cuộc sống du canh, du cư trước đây đã hun đúc cho người Mông những phẩm chất và ý chí, dám đương đầu với những khó khăn, khốc liệt nhất, can hệ đến cả sinh mạng của cá nhân và dòng tộc. Không có bản lĩnh mạnh mẽ thì không thể có được triết lý vừa giản dị vừa sâu sắc như thế này: " Chỉ có con cóc mới đi không hết đường/ trở về chết dưới bàn tay vợ". Quan niệm về lẽ sống chết ở đời của các anh hùng hào kiệt xưa nay như "Chết vinh còn hơn sống nhục" hay "Ngọc nát còn hơn giữ ngói lành", xem ra cũng không phải là xa lạ với người Mông, bởi họ có quan niệm về sống chết rõ ràng, như một chân lý: "Có chết/ chết trên lưỡi sắc/ chớ chết sau sống dao". Chính vì vậy mà người Mông luôn thường trực một tư thế hiên ngang ngẩng đầu mà sống, mà thách thức với cuộc đời, thể hiện rõ ràng, dứt khoát một phong cách mạnh mẽ đến ngang tàng: "nghênh ngang, xù xì như hòn đá tảng giữa ngàn lau".


Người Mông không chỉ "sống hiền lành như con chim núi" cũng không phải chỉ là những "thợ rừng" lành nghề. Ở người Mông còn tiềm ẩn và thường trực một tâm hồn nghệ sĩ rất mực tài hoa. Không phải ngẫu nhiên mà dân tộc Mông lại sở hữu những điệu khèn, những tiếng kèn lá, đàn môi hết sức độc đáo và đặc sắc. Con người dân tộc Mông không chỉ cần mẫn siêng năng mà còn rất khéo léo. Bàn tay người đàn ông Mông chai sạn thô ráp, khai phá ruộng nương, săn bắn chim muông thú dữ. Đôi bàn tay rèn ra khẩu súng, con dao, cũng là đôi bàn tay tạo nên những chiến khèn Mông và sử dụng tài tình, mở ra những thanh âm ngọt ngào tình tứ. Những chiếc lá trên cây đâu có vô tri, đâu phải vô tình, qua bàn tay của chàng trai, cô gái Mông là có thể "đặt lên môi thành tình tứ thành lời":

"Nhớ buổi tiễn chân ta qua đồi Em ngắt lá thổi bài kèn réo rắt"

(Dân ca Mông)

Trên những triền núi cao, khắp các xóm bản của người Mông, luôn tràn đầy những thanh âm rất đặc trưng như là những sứ giả của tâm hồn người Mông: "Điệu khèn vui xóm núi/ Tiếng kèn môi giục lòng" (Lên cao nguyên - Giàng Xuân Hồ).

Khéo léo, tài hoa là nét bản tính đặc trưng của con người dân tộc Mông. Người Mông rất yêu ca hát, yêu âm nhạc. Có lẽ đặc trưng hoàn cảnh sống đã chi phối và góp phần tạo nên những diện mạo tâm hồn ấy của người Mông. Đó là một trong những nét bản sắc mà thiên nhiên và cuộc sống ban tặng cho con người: "Do sống giữa một vùng rừng núi nhấp nhô, đa dạng với muôn ngàn hoa lá khác nhau, nên con mắt của người miền núi có nhiều màu sắc, dáng hình kì vĩ, ít chấp nhận những cái gì bằng phẳng đơn điệu, lặp đi lặp lại đến sáo mòn... Do sống giữa một vùng thiên nhiên như thế, phải đấu tranh


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 110 trang tài liệu này.

chống thú dữ để sinh tồn và bảo vệ mùa màng nên có tác phong hùng dũng đến dữ dội? Hoặc sống trong khoảng không gian bao la mà tâm hồn phóng khoáng nhiều khi đến phóng túng [30]. Đó là tính cách và diện mạo tâm hồn con người dân tộc Mông.

2.2.2. Cuộc sống đơn sơ nhưng phong phú và giàu bản sắc

Một số đặc điểm của thơ ca dân tộc Mông thời kỳ hiện đại từ 1945 đến nay - 7

Trước cách mạng, dân tộc Mông điển hình cho nỗi đau khổ do cuộc sống mất tự do và tập quán du canh du cư cùng với những hủ tục lạc hậu đeo đẳng, trói buộc. Người Mông phải sống cơ cực "như con ma không mẹ cha ăn của thừa", "như con ma mồi côi chăn trâu người". Câu chuyện bi thương về tình cảnh nghiệt ngã của người Mông đói ăn, đói muối được nhà thơ Bàn Tài Đoàn ghi lại bằng những vần thơ đầy cảm thông và đau xót:

"Người Mèo ngày xưa bao đời lại Ở đất Đồng Văn đói khổ nghèo Ngẩng đầu thấy núi cao chót vót Cúi đầu thấy đá chồng chất nhau Bắp vùi xuống đất trong khe đá Nó mọc lên không chịu ra hoa"

(Muối của cụ Hồ - Bàn Tài Đoàn)

Cuộc sống du canh du cư của người Mông luôn thường trực nỗi lo toan như những thử thách lớn lao, khắc nghiệt nhất của số phận. Du canh du cư tưởng trốn được cái nghèo nhưng rốt cuộc "Người trốn đất Mèo cũng khổ/ Người ở đất Mèo thêm nghèo". Không phải họ không nhận ra một hệ quả tất yếu "Giàu di cư thì nghèo/ nghèo di cư thì chết" (tục ngữ Mông) nhưng sự bần cùng vẫn luôn dẫn dắt người Mông đi theo con đường định mệnh.

Cuộc cách mạng tháng Tám vĩ đại đã giải phóng cuộc đời của cả dân tộc. Đồng bào miền núi nói chung và đồng bào dân tộc Mông nói riêng cũng đã


thoát khỏi những cảnh đời tăm tối để bắt tay vào xây dựng một cuộc sống mới, một tương lai mới cho dân tộc mình. Lớp thế hệ nhà thơ Mông đầu tiên được ra đời và lớn lên trong cuộc sống hoà bình, hiểu sâu sắc giá trị của cuộc sống, của hai chữ tự do. Chính vì vậy mà cảm hứng nổi trội nhất trong thơ ca dân tộc Mông thời kỳ hiện đại là cảm hứng về cuộc sống mới do Cách mạng, Đảng và Bác Hồ đem lại. "Chữ Bác Hồ" là món quà lớn lao nhất mà người Mông có được từ chế độ mới, góp phần quan trọng và tích cực để đưa cuộc đời người Mông từ bóng tối ra ánh sáng, từ khổ đau đến với hạnh phúc. Bởi lẽ, chữ viết luôn là nỗi khát khao thường trực của người Mông, là một trong những lí do dẫn đến các cuộc thiên di: "Vì người Mèo ta không có chữ/ Thua kiện người Hán ta mới đi" (Dân ca Mông). Ước mơ có chữ viết luôn được bộc lộ tràn đầy trong các bài ca trước đây của người Mông. Người Mông nhận thức sâu sắc đói nghèo và cùng cực là hệ luỵ tất yếu của nạn mù chữ, thất học: "Người Hán có chữ/ Người Hán ăn không hết tài hết phép/ Người Mông không có chữ/ Quanh năm suốt tháng cơ hàn" (Dân ca Mông). Điều đó lí giải việc ca ngợi chữ Bác Hồ, biết ơn Đảng, Chính phủ là đề tài, là cảm hứng của rất nhiều tác giả người Mông. Người Mông tự hào vì có chữ "dạy cách làm ăn tốt, làm uống hay", "dạy cách làm ăn tốt, làm mặc đúng" và thể hiện tấm lòng tri ân đối với Đảng và Bác Hồ:

Có chữ giúp ghi lại cuộc đời

Học chữ người Mông nhớ công ơn Đảng không nguôi Có chữ giúp ghi lại cuộc sống

Học chữ người Mông nhớ công ơn Bác Hồ mãi mãi.

(Người Mông có chữ)

Lòng biết ơn là tình cảm thường thấy và biểu hiện trong thơ dân tộc Mông thời kỳ hiện đại. Nói thế nào cũng không đủ, nói thế nào cũng không cùng. Dường như, với các tác giả người Mông, khi đặt bút làm thơ, mục tiêu


đầu tiên là thể hiện được tấm lòng của mình, của dân tộc mình, lòng biết ơn đối với Cách mạng đã khai sinh cho người Mông có được một cuộc đời mới. Hùng Đình Quí có các bài thơ Người Mông có chữ (1968), Ơn Đảng (1969), Nhớ Bác Hồ (1969), Ánh đuốc trên đỉnh Vần Chải, Việt Bắc ngày nay (1972); Giàng A Của có bài thơ Có Cụ Hồ về; Vừ Thị Dưa có bài Nhớ đến Chính phủ; rồi Giàng Páo Ly, Giàng A Páo, Mùa A Sấu, Sùng Nhìa Tú... đều có những bài thơ nói lên lòng biết ơn sâu nặng của dân tộc Mông đối với Đảng, với Chính phủ và Bác Hồ.

Tuy nhiên, không phải cứ có được tự do là có ngay được một cuộc sống no ấm hạnh phúc. Người Mông vẫn phải đối mặt với những thử thách, những khó khăn muôn mặt của cuộc đời; vẫn phải "còng lưng bới đá gieo hạt ngô"; vẫn phải kiên tâm bền bỉ gùi từng "lù cở" đất lên núi đá cao nguyên để bắt đá nảy mầm, bắt núi trổ bông để cải tạo cuộc sống. Cuộc sống dẫu còn đơn sơ, nhưng đã đậm đà niềm vui, báo hiệu một tương lai tốt đẹp. Dân tộc Mông là một dân tộc có tính cộng đồng rất cao. Có lẽ do sống khu biệt trên các đỉnh núi hẻo lánh nên tình cảm cộng đồng được cộng hưởng, được nở rộ như những bông hoa dưới ánh mặt trời. Không khí vui tươi, sôi nổi rộn rã ở miền Bắc trong những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội đã lan toả đến tận các bản làng heo hút của người Mông. Cuộc sống dần văn minh, xoá bỏ những hủ tục cũ kỹ, lạc hậu là đối tượng miêu tả, biểu hiện của các nhà thơ Mông. Những thửa ruộng bậc thang lúa vàng trĩu hạt; những mái trường có con em của người Mông theo học, như những “bầy ong tung tăng đi hút nhị hoa”; Những chính sách của Đảng tựa như những làn điệu dân ca bay bổng, lay động, thấm sâu vào tâm hồn người Mông. Khắp nơi rộn rã không khí đổi mới vui tươi, tràn ngập niềm tin vào cuộc sống. Cảm giác lâng lâng của con người được giải phóng, được tự do thật là kì diệu, để người Mông nhìn thiên nhiên cũng thấy có tâm hồn, có sự đồng điệu, say mê:


Mặt trời nâng hoa mây Bồng bềnh sáng núi đá

Cuồn cuộn toả ngọn rừng tre Như nâng cuộc đời ta đi lên

(Mặt trời hoa mây - Giàng A Páo)

Cái say mê đến độ ngây ngất khi người Mông được nghe những lời bạc, lời vàng từ những cán bộ người Kinh, được nhìn thấy những “ánh vàng, ánh bạc” trong đường lối của Đảng; một niềm tin tuyệt đối, rạng ngời trên mắt, trên môi của cả một dân tộc vốn quen với sự chịu đựng và bất công, lần đầu tiên được làm chủ cuộc đời:

Mặt trời chiếu toả tia nắng Sáng đầy núi cao

Như những sợi chỉ hồng Như ánh sáng của Đảng Làm thành huyện ta Ánh sáng mới nơi nơi

Cho xanh rờn đầy núi đầy đồi

(Ánh mặt trời - Giàng A Lử)

Khi không có sự phân biệt vùng cao - vùng thấp, không có sự phân biệt thiểu số - đa số thì dân tộc Mông cũng say sưa và tự nguyện góp công góp sức để đánh tan giặc Mỹ. Tâm trạng của anh trai Mông được lên đường nhập ngũ, được cầm súng trực tiếp chiến đấu mới hân hoan phấn khởi làm sao. Thậm chí nó át đi cả bản tính thường trực của một dân tộc vốn kiệm lời để mà reo lên, bộc lộ niềm vinh dự lớn lao của mình:

Chàng trai ơi Tên chàng đã rõ

Đi đánh Mỹ chính nơi mặt trận


Tên chàng giấy ghi tỏ tường Đi đánh Mỹ ngoài mặt trận

(Chuyện râm ran - Giàng A Lử)

Phải là một dân tộc đã đắm chìm quá lâu trong u tối, khổ cực; phải là những con người đã bị đày đoạ quá lâu trong những đắng cay, bất hạnh mới có được cảm giác vui mừng đến tuyệt đỉnh của hạnh phúc khi cuộc sống không còn lo toan, một cuộc sống đủ đầy, mãn nguyện cả về vật chất lẫn tinh thần:

Người Mèo vùng cao ta Ở bền nơi, làm bền nơi... Trồng chè đầy núi Trồng rừng xanh rờn Thành rừng bát ngát

Cuộc đời ta

Mọi thứ đều làm ra

(Định canh, định cư - Giàng A Gia)

Cuộc sống của người Mông có sự bình yên, êm đềm, đẹp một cách lãng mạn. Chất lãng mạn ngấm sâu vào tim vào óc mỗi người để thăng hoa thành những tâm hồn nghệ sĩ. Phải có tâm hồn nghệ sĩ mới thấy được chất men say của những vụ mùa no ấm và sức sáng tạo kì diệu của bàn tay con người:

"Bậc thang vút lên mây Mùa vào thơm lúa chín Hương lúa tràn quê hương"

(Lên cao nguyên - Giàng Xuân Hồ)

Để góp phần tạo nên cuộc sống êm đềm và thơ mộng đó, có sự tần tảo và cũng rất duyên dáng của "cô gái người Mông/ Thêu cả bốn mùa vào gấu váy"; có sự cần mẫn và cũng rất nên thơ của con người như gắn bó, hoà quyện với khung cảnh thiên nhiên: "Ngược ngược núi/ lúi húi cô gái Mèo xe gai/ Đeo


nắng chiều về bản"; có cả những suy tư, trăn trở thậm chí lo âu, dằn vặt về cách thức và con đường để vượt qua số phận, để thoát khỏi cái nghèo:

"Em gầu Mông

Mảnh đất quê ta đâu phải nghèo Chỉ vì không biết chữ

Cái miệng muốn ăn

Nhưng tay chẳng với tới"

(Phải học - Hùng Đình Quí)

Sự đổi thay đáng ghi nhận nhất trong cuộc sống của người Mông có lẽ là sự đổi thay về số phận của người phụ nữ. Chúng ta đã quá quen thuộc hình ảnh cô Mỵ trong tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài. Cô Mỵ sống một cuộc đời câm lặng trong đau khổ "lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa" nhà thống lí Pá Tra. Những cô Mỵ ngày xưa đã được cách mạng đem đến cho một cuộc đời mới, được làm chủ bản thân và tương lai của mình, được học hành để tâm hồn lúc nào cũng phơi phới niềm vui: "Đi trên đường lá óng ánh/ Em gái Mông/ Lòng dạ cười lấp lánh". Kì diệu hơn, cô gái Mông ngày nay đã có thể trở thành cô giáo, đem cái chữ Bác Hồ để soi sáng cho đồng bào mình, dân tộc mình. Hình ảnh cô giáo người Mông đi dạy học là một hình ảnh đẹp đến thi vị về cuộc sống hạnh phúc của người Mông trong xã hội mới:

Đom đóm thắp đuốc dầu Đom đóm thắp đuốc sáng

Sáng soi Vần Chải những mái nhà tranh Đấy là cô giáo Gầu Mông

Tay giỏi tay cầm sách Tay trắng tay cầm đèn

Đi dạy học xuống giữa thôn

(Ánh đuốc trên đỉnh Vần Chải - Hùng Đình Quí)

Xem tất cả 110 trang.

Ngày đăng: 10/03/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí