Đặc Điểm Về Ngôn Ngữ, Chữ Viết


Người Mông quan niệm “vạn vật hữu linh”. Tất cả sự vật hiện tượng trong cuộc sống đều có linh hồn. Con người cũng có phần xác và phần hồn. Vì thế mới có tục cúng ma tươi và ma khô, tức là để người chết gột rửa sạch tội lỗi, hoá kiếp để đầu thai làm kiếp khác. Sống trên trần thế, với người Mông cũng chỉ là sống tạm nên hết sức thanh thản. Điều đó lí giải tại sao khi cuộc sống không được toại nguyện hoặc khi bất lực trước thiên nhiên, người Mông dễ tự tử để hy vọng vào kiếp khác. Nhất là những đôi trai gái yêu nhau không lấy được nhau, ăn lá ngón tự tử và hứa sẽ “cầm ô đứng đợi nhau trên cổng nhà trời”.

Theo ý niệm của người Mông, thế giới này thuộc về các thần linh cai quản, gồm có 3 tầng: Tầng trời, tầng giữa (trần gian) và tầng dưới lòng đất (địa ngục). Vị thần vĩ đại nhất của muôn loài là trời. Tầng trời là nơi cư trú của Ngọc Hoàng và các thần như thần Sấm, thần Sét, thần Mưa … và còn là nơi sinh sống của các ma tổ tiên. Tầng giữa - trần gian (ntiêx têz) là nơi cư trú và sinh sống của con người muông thú, cây cỏ … tầng dưới cùng là địa ngục, còn gọi là “đáy trần gian” (kangz ntiêx têz) chỉ là một nơi tối om, nằm sâu trong lòng đất. Người Mông luôn tin rằng, khi con người chết đi, hồn ma được đoàn tụ với tổ tiên. Hồn con người tồn tại vĩnh viễn nên chết chỉ là một sự hoá kiếp.

Trong trí tưởng tượng của người Mông, có nhiều loại thần linh và ma khác nhau. Trong thế giới âm, các loại ma quỉ, thần thánh được chia làm 2 loại: Ma lành và ma dữ. Ma lành bảo vệ cho cuộc sống của con người nên phải được tôn trọng, quan tâm tới việc cúng bái một cách chu đáo, đúng kỳ hạn; ma dữ là ma chuyên làm hại người và gia súc, mùa màng. Nếu được cúng bái kịp thời ma dữ cũng sẽ giảm bớt đi sự hung dữ.

Tục thờ cúng tổ tiên của người Mông cũng có phần khác với người Kinh hay các dân tộc khác. Tuỳ từng dòng họ mà trong nhà có hoặc không có bàn


thờ. Bàn thờ của người Mông thường được đặt ở vách hậu gian giữa và được cố định để thờ cúng quanh năm. Trên đặt 3 ống tre để cắm hương (ống giữa thờ tổ tiên, ống bên phải thờ thần trông coi gia đình, ống bên trái thờ thần chăm sóc sức khoẻ các thành viên trong gia đình) [37]. Sáng mồng một tết, các gia đình người Mông thường mổ một con gà để cúng tổ tiên. Chủ nhà nhổ một ít lông gà nhúng vào bát tiết sau đó đem dán lên bàn thờ. Sau khi cúng mời tổ tiên, gia chủ dán những tờ giấy bản vào công cụ sản xuất, đồ đạc trong nhà để ma các đồ vật đó được ăn tết và phù hộ cho gia đình. Khi gia đình có đám cưới, đám tang hay có người ốm đau, người Mông cũng cúng mời ma nhà về phù hộ. Trong nghi lễ thờ cúng, người Mông có một số kiêng kị như chỉ có con trai mới được đến gần bàn thờ; khách đến chơi không được ngồi quay lưng lại bàn thờ vì làm như vậy tổ tiên sẽ phật ý. Ma tổ tiên là ma lành nhưng nếu không thờ cúng một cách chu đáo, ma tổ tiên sẽ nổi giận và gây ra ốm đau cho con cháu. Vì vậy, việc thờ cúng ma tổ tiên được các gia đình người Mông thực hiện và duy trì hết sức cẩn thận.

Hệ thống thần bản mệnh trong quan niệm của người Mông rất phong phú và đa dạng. So với một số dân tộc khác thì hệ thống thần bản mệnh này ít bị pha tạp bởi các yếu tố tôn giáo mà tương đối thuần nhất. Đó là các loại ma nhà gồm: ma cửa, ma buồng, ma giữ của, ma góc nhà, ma cột chính… Từ quan niệm đó dẫn tới một số kiêng kị mang tính chất phong tục như: Người có thai không được bước qua cửa vào xông đất vì làm như vậy sẽ làm cho ma cửa sợ hoặc bị ngã khiến cả năm đó gia chủ sẽ gặp những điều không may mắn; người lạ không được tựa lưng vào cột chính, không treo quần áo hoặc các thứ khác lên cột; người lạ không được bước qua cửa buồng. Ngày tết không được thổi hơi vào bếp lửa vì sợ năm đó hơi lửa sẽ bùng to cháy nhà; không dẫm chân lên bếp vì sợ ma bếp tức giận bỏ đi. Ở một số nơi, người Mông kiêng con dâu không được lên gác…


Đời sống tâm linh là nơi trú ngụ của những niềm tin mang tính tôn giáo. Đó là những niềm tin mãnh liệt tạo dựng lên sức mạnh tinh thần. Xét dưới góc độ nào đó, quan niệm và niềm tin chính là ý nghĩa mục đích của cuộc sống. Dân tộc Mông gan dạ, quật cường, có bản lĩnh vô song vì họ có niềm tin và biết khơi dậy niềm tin. Đó là mặt mạnh đồng thời cũng là một hạn chế lớn của người Mông trên con đường tìm đến với cuộc sống văn minh và hạnh phúc.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 110 trang tài liệu này.

1.1.4. Đặc điểm về ngôn ngữ, chữ viết

Tiếng Mông là tiếng nói của khoảng 80 vạn người Mông ở nước ta. Mông (HMôngz) là tên gọi có nghĩa là “người”. So với một số dân tộc ít người khác sống trên cùng một địa bàn thì người Mông sống tương đối tập trung. Đây là một điều kiện thuận lợi để tiếng Mông có thể phổ biến và phát triển.

Một số đặc điểm của thơ ca dân tộc Mông thời kỳ hiện đại từ 1945 đến nay - 4

Tiếng Mông thuộc họ Nam Á, ngữ hệ Mèo - Dao. Ở Việt Nam, nhóm Mèo - Dao gồm có các ngôn ngữ: Mông, Dao, Pà Thẻn.

Người Mông có 5 ngành, tương ứng là 5 phương ngữ. Đó là các tiếng Mông Đỏ (Mông trắng), Mông Lềnh (Mông hoa), Mông Si (Mông đỏ), Mông Đu (Mông đen) và Mông Sua (Mông xanh). Tiếng Mông là ngôn ngữ thuộc loại hình đơn âm tiết có cấu trúc âm tiết gồm: Âm đầu, vần và thanh điệu. Tiếng Mông có 58 phụ âm, 25 vần; âm chính gồm có 11 nguyên âm đơn và 5 nguyên âm đôi. So với tiếng Việt, tiếng Mông hạn chế về âm cuối, chỉ có bán nguyên âm I, u và phụ âm nh, ng giữ vai trò âm cuối (tiếng Mông đỏ không có). Tiếng Mông có đến 8 thanh điệu [3]. Về cơ bản, tiếng Mông là một ngôn ngữ thống nhất. Sự thống nhất của tiếng Mông thể hiện rõ nhất ở ngữ pháp. Giữa các ngành Mông không có sự phân biệt về đặc trưng cấu tạo từ, về phương thức ngữ pháp, về trật tự các thành phần câu… Vốn từ cơ bản của các ngôn ngữ Mông cũng không có sự khác biệt lớn. Theo điều tra ngôn ngữ học 1955 - 1957 (của Nguyễn Văn Chỉnh), chỉ có tiếng Mông Xanh là khác biệt


lớn nhất về vốn từ cơ bản với 21,3%, còn các ngành Mông khác chỉ khác biệt khoảng 4% đến 7 %.

Hệ thống phụ âm, thanh điệu giữa các ngành Mông cũng một số khác biệt, hệ thống âm vị có thêm bớt một vài trường hợp, song nhìn chung, cơ cấu phụ âm và thanh điệu của các ngành Mông là thống nhất và người Mông các vùng có thể giao tiếp với nhau một cách bình thường.

Người Mông luôn khao khát có chữ viết, điều này thể hiện ở những trang giấy bản thờ cúng tổ tiên, thánh thần và đốt đi cho người chết. Những tờ giấy bản được đục lỗ theo hình dọc, giống như các dòng chữ nho, người Mông cho đó là chữ của dân tộc mình từ xa xưa đã bị lấy cắp và mất đi vì một lí do nào đó. Giấy bản đục lỗ được dùng trong mọi lễ hội, tang ma, hôn nhân. Lời khấn thỉnh cầu của thầy cúng cùng người sống được ẩn vào trong giấy bản và được đốt đi để theo về cõi âm.

Tiếng Mông là một ngôn ngữ vốn không có chữ viết. Năm 1961, phương án chữ Mông được Chính phủ Việt Nam phê chuẩn (theo Nghị định 206/CP ngày 27/11/1961 về việc phê chuẩn phương án chữ Thái, Tày, Nùng, Mèo), đưa vào sử dụng thống nhất trong cả nước. Chữ Mông ở Việt Nam là bộ chữ được dựa trên hệ thống kí tự Latin theo nguyên lý ghi âm, trên cơ sở ngữ âm của ngành Mông Lềnh ở Sa Pa - Lào Cai, có bổ sung thêm một số âm vị của các ngành Mông khác. Những năm 70, phong trào học chữ Mông phát triển khá mạnh ở hầu hết các tỉnh miềm núi phía Bắc, nơi có đông đồng bào Mông sinh sống. Đến nay, do nhiều nguyên nhân, tình hình học chữ Mông đã không còn phát triển.

Tuy nhiên, chữ Mông còn có một số khiếm khuyết gây khó khăn cho người sử dụng. Trước hết, hệ thống chữ Mông có quá nhiều kí hiệu ghi các biến thể khác nhau của một âm vị; có kí hiệu ghi một số âm chỉ có ở từ vay mượn, chỉ tồn tại ở một số vùng hoặc chỉ có một số người phát âm được, còn


đa số người Mông lại không hề biết đến. Một khiếm khuyết khác làm cho nhiều người Mông băn khoăn là vẻ cách biệt quá xa giữa chữ Mông với chữ Quốc ngữ, biểu hiện ở chỗ chữ Mông sử dụng chữ cái để ghi thanh điệu, việc này khiến cho người sử dụng có những nhầm lẫn trong việc phân biệt chữ cái ghi phụ âm với chữ cái ghi thanh điệu... Bởi có những bất hợp lý như vậy, một số nhà nghiên cứu cách đây vài chục năm đã có những đề nghị cải tiến chữ Mông, nhưng cho đến nay, công việc này vẫn chưa được tiến hành [3].

Hiện nay, chữ viết của người Mông trên các nước đã thống nhất cùng một loại. Đó là bộ chữ được xây dựng theo kiểu chữ Latin, do một nhà văn người Mông nhập cư ở Mỹ sáng lập ra từ những năm 70. Do sự phát triển bùng nổ của thông tin đã tràn lan vào đời sống xã hội trong các cộng đồng Mông ở các nước, sự thống nhất về chữ viết đã làm cho người Mông trên khắp thế giới cùng thống nhất được một tiếng nói đó là tiếng Mông Đơ (Mông Trắng). Bởi người Mông ở các nước có nền văn hoá phát triển như Thái Lan, Mỹ, Pháp, Úc, Lào... đều là người Mông Trắng [18].

Có thể nói rằng, ngôn ngữ Mông không chỉ chiếm một vị thế đặc biệt trong đời sống của đồng bào Mông mà còn góp phần quan trong trong việc phát triển đời sống văn hoá xã hội ở các khu vực miền núi Việt Bắc, Tây Bắc. Ngôn ngữ Mông là công cụ để những trí thức Mông bước đầu biểu hiện đời sống tâm hồn của người Mông qua những sáng tác thơ văn bằng tiếng dân tộc. Nhờ đó mà ngay từ những năm 60, thơ hiện đại dân tộc Mông đã có mầm mống của sự hình thành và phát triển. Những sáng tác đầu tiên bằng tiếng dân tộc đã là động lực để những tác giả người Mông thêm yêu mến tự hào về quê hương của mình, là chiếc cầu nối để những tác giả người Mông bước nhanh tới đời sống văn học, vững vàng hơn trong những sáng tác bằng tiếng phổ thông sau này.


1.2. Vài nét về thơ ca dân tộc Mông

1.2.1. Thơ ca dân gian

Cùng với chiều dài lịch sử, dân tộc Mông sớm có một nền văn học dân gian phong phú, đa dạng phản ánh đời sống văn hoá cũng như tâm tư nguyện vộng của cộng đồng. Các thể loại văn học dân gian của dân tộc Mông cũng giống như các dân tộc khác như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích và đặc biệt là thơ ca dân gian với hai mảng chính là truyện thơ và dân ca.

Truyện thơ của người Mông không chỉ chứa đựng những phong tục tập quán, những cách cảm nhận về đời sống rất đặc trưng của người Mông, mà còn thể hiện những khát vọng mãnh liệt về tình yêu và hạnh phúc của họ, trải qua bao những biến cố thăng trầm. Có thể nói, mỗi đề tài trong truyện thơ của người Mông đều gắn liền với một kiểu nhân vật đặc sắc, đầy cá tính, như các truyện thơ “A Thào Nù Câu”, “Nàng Dợ Chà Tăng”, “Dìa Pàng - Dùa phông”, “Nàng Phan- Nồng Dí”... Truyện thơ của người Mông là một quá trình tự sự hoá dân ca trữ tình. Mỗi truyện thơ là một tác phẩm hoàn chỉnh cả về cốt truyện lẫn hệ thống nhân vật. Có thể tìm thấy trong truyện thơ quá trình phát triển của xã hội người Mông; những truyền thống văn hoá và đạo lí, những phong tục tập quán qua nhiều thế kỷ đã tạo nên bản sắc riêng của cả một cộng đồng.

Dân ca là một thể loại rất phổ biến trong đời sống sinh hoạt tinh thần của người Mông. Đó là những bài hát mang nội dung trữ tình, biểu lộ tình cảm, tâm tư, nguyện vọng của đồng bào trong cuộc sống thường ngày. Ẩn chứa trong đó bao niềm vui, nỗi buồn và cả trăm ngàn sắc thái, cung bậc tình cảm khác nhau. Người Mông yêu dân ca với một thứ tình cảm mang tính bản năng. Với họ cuộc sống chính là một bài dân ca trường thiên bất tận. Đời sống của người Mông luôn song hành với quá trình lưu truyền và sáng tạo dân ca. Dân


ca trở thành một món ăn tinh thần không thể thiếu của người Mông trong cuộc sống hàng ngày.

Theo ý kiến của các nhà nghiên cứu, dân ca Mông có thể được phân chia nội dung thành 5 mảng đề tài chính bao gồm: Tiếng hát tình yêu (gầu plềnh), tiếng hát cưới xin (gầu xống), tiếng hát làm dâu (gầu ua nhéng), tiếng hát mồ côi (gầu tú giua) và tiếng hát cúng ma (gầu tuờ).

Tục ngữ của người Mông phản ánh những tri thức và kinh nghiệm sống của dân tộc trong lịch sử. Trong đời sống và tư duy, tục ngữ thể hiện những kinh nghiệm sản xuất, cách thức ứng xử, các mối quan hệ xã hội.

Đặc điểm nghệ thuật của tục ngữ nói chung và tục ngữ Mông nói riêng là ngắn gọn, xúc tích, tuy chứa đựng những nội dung tương đối lớn, nhưng hình thức mỗi câu lại rất nhỏ “ép chặt thành từng từ như xiết ngón tay thành quả đấm…, dè sẻn từng tiếng làm cho lời nói cô đọng giàu ý nghĩa”[17]. Tục ngữ có tính bền vững, ổn định, là những câu nói ngắn gon, dễ nhớ, dễ truyền khẩu, ít dị bản, là lời ăn tiếng nói của nhân dân. Tục ngữ Mông rất phong phú về ý nghĩa, cái cụ thể thường gắn liền với cái khái quát, cái cụ thể gắn liền với cái khái quát và ngược lại:

- Một tay vỗ không kêu Ba tay vỗ vang rừng

- Nước to dễ sang đò Người đông dễ làm ăn

Có những câu tục ngữ mang ý nghĩa biểu tượng, ẩn dụ: “Bò có đường bò cày/ Ngựa có đường ngựa đi”.Trong văn học dân gian Mông, tục ngữ là một hiện tượng nghệ thuật độc đáo; câu văn ngắn gọn mà phản ánh được nhiều ý muốn diễn đạt, có nghệ thuật, như một chân lý: “Nói ít nhớ lâu - Nói nhiều quên mau”, “Gừng già gừng càng cay/ Người già hiểu điều hay”. Tục ngữ ngắn gọn nhưng không khô khan. Có thể tìm thấy trong kho tàng tục ngữ của


người Mông những hình ảnh đẹp đẽ, những cách nói ví von sinh động: “Tiền bạc trên đá/ Không làm khó nhọc thì không có tiền”, “Có súng không bắn chim Bồ các/ Có sức không đánh người ăn củ mài”. Nhìn chung, “Tục ngữ có bao nhiêu hiện tượng phong phú…Và tất cả bao nhiêu thứ đó được chồng lên một diện tích ngôn ngữ nhỏ hẹp” (L. Ôzêrốp). Tục ngữ góp phần làm phong phú, sinh động và tô đậm bản sắc văn hoá Mông.

Người Mông rất ưa câu đố. Câu đố trong đời sống xã hội của người Mông như một hình thức sinh hoạt giải trí lành mạnh và hấp dẫn, như là một phương tiện đặc biệt để nhận thức và kiểm tra nhận thức về các sự vật, sự việc, các biểu tượng của thế giới khách quan” [17].

Đồng bào Mông thể hiện những hiểu biết của mình về giới tự nhiên thông qua các câu đố. Câu đố Mông có vần điệu nhịp nhàng, cân xứng, với cách kết cấu ngắn gọn, cách gieo vần như tục ngữ: “Không phải đồng, không phải sắt/ Chặt không đứt, ăn không được” (Nước), “Năm anh em địu năm viên ngói” (Năm ngón tay). Có khi, vần điệu góp phần gợi lên hình dáng, đặc điểm hoặc tính chất của vật cần đố. Chẳng hạn: “Cái lồng nho nhỏ/ Có một chú chim/ Nhảy nhảy đi, nhảy nhảy lại/ Nhảy mãi không thôi” (Quả tim).

Câu đố Mông không chỉ giàu âm thanh mà còn giàu hình tượng. Có khi, hình tượng được gợi lên bằng cách miêu tả trực tiếp đặc điểm của sự vật: “Không có cành/Lại có lá/Đầu hoa nhọn, thân quả nhẵn” (Cây chuối); có khi dáng vẻ bên ngoài của sự vật để sử dụng làm phương tiện để đố. Chẳng hạn, câu đố về răng và lưỡi: “Ông trắng giã gạo, ông đỏ đào bới”, câu đố về tre, măng: “Mẹ cởi truồng, con mặc váy”. Có khi, tác giả dân gian nhân hoá sự vật hiện tượng để chúng có một dáng vẻ như con người: “Cụ già lưng còng/Rốn ở sau lưng” (Cái vung nồi). Câu đố Mông thường có sự liên tưởng bất ngờ, dí dỏm và rất trí tuệ. Chẳng hạn, miêu tả động tác xẻ gỗ: “Rắn chui vào sườn đá/ Mèn mén lại chảy ra”. Có những câu tục ngữ được cấu tạo theo kiểu “đố tục,

Xem tất cả 110 trang.

Ngày đăng: 10/03/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí