Môi Trường Đầu Tư Với Hoạt Động Thu Hút Vốn Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài


thu thập số liệu phân tích theo tiến trình thời gian. Bên cạnh đó, luận án sử dụng kết quả điều tra để đánh giá từng môi trường đầu tư thành phần.

Căn cứ vào kết quả điều tra và các chỉ số được các tổ chức công bố theo thời gian để đánh giá quá trình cải thiện môi trường. Đây là các chỉ số được các tổ chức công bố gần đây nhất.

Luận án đã phân tích ảnh hưởng của sự thay đổi các môi trường đến FDI từ năm 1988-2009 theo từng giai đoạn đến vốn FDI thu hút và thực hiện theo từng giai đoạn. Đồng thời, luận án cũng cho thấy ảnh hưởng bởi các yếu tố thuộc môi trường đầu tư đến cơ cấu FDI thu hút và thực hiện theo ngành, vùng, hình thức đầu tư.

Luận án đã sử dụng chỉ số về môi trường đầu tư của năm 2009 kết hợp với biểu diễn bằng biểu đồ Pareto những yếu tố gây trở ngại lớn nhất cho hoạt động ĐTNN theo đánh giá của các DN điều tra để chỉ ra một số tồn tại trọng yếu của môi trường đầu tư có ảnh hưởng nhiều nhất đến FDI. Những trở ngại lớn nhất ảnh hưởng đến thu hút FDI thuộc về các yếu tố: môi trường kinh tế vĩ mô, quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội của vùng, ngành, hệ thống luật pháp liên quan đến đầu tư và kinh doanh, thủ tục hành chính, tham nhũng, cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực.

Để quá trình cải thiện môi trường đầu tư đạt hiệu quả cao, tác giả đã đề xuất những quan điểm cần quán triệt trong quá trình cải thiện môi trường đầu tư, bao gồm: cải thiện môi trường đầu tư phải đi trước một bước; cải thiện môi trường đầu tư hệ thống, đồng bộ, hợp lý; kết hợp cải thiện từng bước với những bước đột phá; đảm bảo nguyên tắc tập trung, dân chủ trong quá trình cải thiện môi trường đầu tư; cải thiện môi trường đầu tư thường xuyên và định kỳ; cải thiện môi trường đầu tư cần quan tâm tới lợi ích của nhiều bên: nhà đầu tư, xã hội; cải thiện môi trường đầu tư phải phù hợp với điều kiện địa phương và bối cảnh môi trường đầu tư quốc tế; xã hội hóa quá trình cải thiện môi trường đầu tư; gắn kết chặt chẽ quá trình cải thiện môi trường đầu tư với hoạt động xúc tiến đầu tư.


Luận án đã ưu tiên các yếu tố trở ngại trọng yếu của môi trường đầu tư để đề xuất các giải pháp có tính hệ thống nhằm giải quyết các trở ngại này của môi trường đầu tư trong thời gian tới nhằm thu hút có hiệu quả nguồn vốn FDI.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được chia làm 3 chương như sau:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 224 trang tài liệu này.

Chương 1: Môi trường đầu tư với hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

Chương 2: Môi trường đầu tư với hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam

Môi trường đầu tư với hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam - 3

Chương 3: Một số giải pháp nhằm tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư Việt nam để

thu hút có hiệu quả nguồn vốn FDI vào Việt Nam


CHƯƠNG 1. MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ VỚI HOẠT ĐỘNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ PHÂN LOẠI MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ

1.1.1. Khái niệm

Môi trường được hiểu là một không gian hữu hạn bao quanh những sự vật hiện tượng, yếu tố hay một quá trình hoạt động nào đó như môi trường nước, môi trường văn hoá, môi trường sống, môi trường kinh doanh… Môi trường đầu tư là một thuật ngữ đã được nghiên cứu và sử dụng trong lĩnh vực kinh tế và quản trị kinh doanh ở nhiều nước trên thế giới. Cho đến hiện nay, khái niệm môi trường đầu tư được nhiều tác giả đề cập đến nhưng vẫn còn chưa thống nhất. Khái niệm môi trường đầu tư được nghiên cứu và xem xét theo nhiều khía cạnh khác nhau tuỳ theo mục đích, phạm vi, đối tượng nghiên cứu.

Khái niệm 1: “Môi trường đầu tư quốc tế là tổng hoà các yếu tố có ảnh hưởng

đến các hoạt động kinh doanh của nhà đầu tư trên phạm vi toàn cầu.”[25]

Khái niệm này đề cập đến các yếu tố của môi trường đầu tư quốc tế ảnh hưởng đến dòng chảy vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong đó, môi trường đầu tư quốc tế bao gồm các yếu tố của nước nhận đầu tư (như tình hình chính trị, chính sách-pháp luật, vị trí địa lý-điều kiện tự nhiên, trình độ phát triển kinh tế, các đặc điểm văn hoá xã hội), các yếu tố ở nước đầu tư (như thay đổi chính sách kinh tế vĩ mô, các hoạt động thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài của chính phủ, tiềm lực kinh tế, khoa học công nghệ) và các yếu tố thuộc môi trường quốc tế (như xu hướng đối thoại chính trị khu vực và thế giới, liên kết khu vực, tăng trưởng của TNCs và tốc độ toàn cầu hoá). Vậy, môi trường đầu tư quốc tế gồm 3 môi trường bộ phận, đó là: môi trường đầu tư ở nước nhận đầu tư (còn gọi là môi trường ĐTNN), môi trường đầu tư ở nước đi đầu tư và môi trường quốc tế. Mối quan hệ giữa 3 môi trường được thể hiện ở Sơ đồ 1.1. Nếu từng yếu tố của từng môi trường bộ phận thay đổi sẽ tác động đến quyết định đầu tư ra nước ngoài của chủ đầu tư, và từ đó ảnh hưởng đến dòng chảy vốn đầu tư quốc tế.



Môi trường quốc tế (dung môi)

Môi trường đầu tư ở nước đi đầu tư

Môi trường đầu tư nước ngoài

Dòng vốn đầu tư ra nước ngoài

Dòng lợi nhuận đầu tư chuyển về nước Nguồn: Phùng Xuân Nhạ [25].

Sơ đồ 1.1. Môi trường đầu tư quốc tế


Tuy nhiên, khác với khái niệm môi trường đầu tư quốc tế, các tác giả khác chỉ chú ý tới môi trường ĐTNN.

Khái niệm 2: “môi trường đầu tư là tổng thể các yếu tố, điều kiện và chính sách của nước tiếp nhận đầu tư chi phối đến hoạt động đầu tư nước ngoài.” [38]

Khái niệm 2 cũng quan tâm tới ảnh hưởng của môi trường đầu tư tới hoạt động FDI nhưng chỉ chú ý tới các yếu tố của môi trường đầu tư của nước tiếp nhận đầu tư. Khái niệm này không đề cập tới các yếu tố của môi trường bên ngoài (môi trường quốc tế, môi trường nước đi đầu tư) có ảnh hưởng đến hoạt động FDI.

Khái niệm 3, “môi trường đầu tư phản ánh những nhân tố đặc trưng của địa điểm, từ đó tạo thành các cơ hội và động lực cho DN đầu tư hiệu quả, tạo việc làm và phát triển”. [65]

Khái niệm 3 được đưa ra trong Báo cáo phát triển thế giới năm 2005, khái niệm này chỉ xem xét tới môi trường đầu tư của một địa điểm (một quốc gia, một vùng, một địa phương), môi trường đầu tư là tập hợp các nhân tố đặc trưng địa điểm ảnh hưởng tới quyết định đầu tư. Chính những nhân tố đặc thù địa điểm có ảnh hưởng tới chi phí, rủi ro, rào cản cạnh tranh của DN, từ đó ảnh hưởng tới lợi nhuận kỳ vọng. Các nhà đầu tư sẽ xem xét tác động của các yếu tố này tới lợi nhuận của mình để ra quyết định đầu tư. Trong những nhân tố của môi trường đầu tư, có những nhân tố chính phủ có tác động đáng kể như văn bản pháp luật, thuế, cơ sở hạ tầng,


tham nhũng...; và có những nhân tố chính phủ ít có ảnh hưởng như điều kiện tự nhiên, quy mô thị trường. Việc cải thiện môi trường đầu tư được thực hiện thông qua những nhân tố mà chính phủ có thể tác động. Do đó, báo cáo phát triển thế giới năm 2005 chỉ chú trọng tới các yếu tố này, đó chính là các chính sách và hành vi của chính phủ. Báo cáo này đã đề cập tới môi trường đầu tư tại nước nhận đầu tư, đây là một phần quan trọng chủ đầu tư xem xét khi ra quyết định đầu tư bên cạnh năng lực và chiến lược đầu tư của mình.

Báo cáo cũng phân loại các yếu tố của môi trường đầu tư theo chức năng quản lý của chính phủ và ảnh hưởng của môi trường đầu tư tới quyết định đầu tư thông qua tác động chi phí, rủi ro, rào cản cạnh tranh của nhà đầu tư. Với tiêu đề của Báo cáo là Môi trường đầu tư tốt hơn cho mọi người, môi trường đầu tư là dành cho mọi chủ thể kinh tế, DN lớn, DN nhỏ, hoạt động đầu tư trong nước và hoạt động đầu tư có vốn nước ngoài. Hơn nữa, môi trường đầu tư không chỉ mang lại lợi nhuận cho bản thân DN đầu tư mà còn mang lại lợi ích cho xã hội, lợi ích cho các chủ thể khác của nền kinh tế.

Ngoài ra, còn có các khái niệm môi trường đầu tư khác:

“Môi trường đầu tư là hệ thống các yếu tố đặc thù của quốc gia đang định hình ra những cơ hội để các doanh nghiệp đầu tư có hiệu quả.”[27]

Môi trường đầu tư là tổng hợp các yếu tố (điều kiện về pháp luật, kinh tế, chính trị-xã hội, các yếu tố về cơ sở hạ tầng, năng lực thị trường và cả các lợi thế của một quốc gia) có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư tại một quốc gia.

Môi trường đầu tư là một tập hợp các yếu tố tác động tới các cơ hội, các ưu đãi, các lợi ích của các DN khi đầu tư mới, mở rộng sản xuất kinh doanh, có tác động chi phối tới hoạt động đầu tư thông qua chi phí, rủi ro và cạnh tranh.

Ở các khái niệm sau, môi trường đầu tư bao gồm nhiều yếu tố như điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội, sự sẵn sàng và đồng thuận của chính phủ, chính quyền một quốc gia hay khu vực lãnh thổ trong quốc gia. Tất cả các yếu tố riêng có


của một quốc gia sẽ tạo ra những cơ hội đầu tư, có ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của DN, của nhà đầu tư. Môi trường đầu tư có ảnh hưởng tới lợi ích của DN, có tác động tới hoạt động đầu tư tại quốc gia đó nhưng không đề cập tới lợi ích của các chủ thể khác và toàn bộ nền kinh tế. Rõ ràng, hoạt động đầu tư là của chủ đầu tư và do chủ đầu tư quyết định nhưng nó có tương tác với các chủ thể khác của nền kinh tế, từ đó có tác động tới tăng trưởng và phát triển kinh tế.

Các khái niệm trên đều bao gồm hai phần: phần một đề cập tới các yếu tố của môi trường đầu tư, phần hai là ảnh hưởng của các yếu tố tới hoạt động đầu tư của ai. Tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu, mỗi khái niệm đều giới hạn phạm vi của từng phần hoặc một trong hai phần đó. Chẳng hạn, với khái niệm 1, môi trường đầu tư bao gồm 3 môi trường bộ phận còn các khái niệm khác thì môi trường đầu tư chỉ đề cập trong phạm vi môi trường đầu tư của nước nhận đầu tư. Với phần hai, khái niệm 1 và 2 chỉ giới hạn tới hoạt động đầu tư của nhà ĐTNN, các khái niệm khác đề cập tới hoạt động đầu tư trong phạm vi một quốc gia, cả trong nước và nước ngoài. Trong tất cả khái niệm, chỉ duy nhất khái niệm môi trường đầu tư của Ngân hàng Thế giới đề cập tác động của môi trường đầu tư tới cả các chủ thể khác của nền kinh tế như người lao động cũng như tới tăng trưởng và phát triển kinh tế.

Tại Việt Nam, trong khi khả năng tích lũy vốn chưa đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển thì việc tích cực thu hút nguồn vốn FDI là cần thiết. Có nhiều yếu tố của môi trường đầu tư ảnh hưởng tới dòng chảy vốn FDI, bao gồm: môi trường đầu tư ở nước nhận đầu tư (còn gọi là môi trường ĐTNN), môi trường đầu tư ở nước đi đầu tư và môi trường quốc tế. Trong ba môi trường đầu tư thành phần, môi trường đầu tư của nước đi đầu tư và môi trường đầu tư quốc tế là chịu sự kiểm soát của nhà ĐTNN, chỉ có môi trường ĐTNN là môi trường mà nước nhận đầu tư có thể chủ động kiểm soát, và cải thiện khi muốn thu hút vốn FDI. Luận án chỉ tập trung nghiên cứu môi trường đầu tư của nước tiếp nhận đầu tư và ảnh hưởng của nó tới thu hút vốn FDI. Với phạm vi nghiên cứu của luận án, tác giả xin đưa ra khái niệm môi trường đầu tư như sau:


Môi trường đầu tư là tổng hoà các yếu tố của nước nhận đầu tư có ảnh hưởng tới hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, và phát triển kinh tế.

Trước hết, môi trường đầu tư là tổng hòa của các yếu tố của nước nhận đầu tư. Các yếu tố này có thể thuộc về các nhóm và các môi trường bộ phận nếu phân loại theo các tiêu chí khác nhau. Các yếu tố của môi trường đầu tư gồm các yếu tố thuộc các môi trường tự nhiên, môi trường chính trị, pháp luật, môi trường kinh tế, môi trường văn hóa xã hội. Thứ hai, môi trường đầu tư ở khái niệm này chỉ đề cập đến môi trường đầu tư của nước tiếp nhận đầu tư, mà không đề cập đến các môi trường bên ngoài quốc gia mặc dù các yếu tố của môi trường bên ngoài có ảnh hưởng tới sự thay đổi của các yếu tố của môi trường đầu tư của nước nhận đầu tư. Thứ ba, các yếu tố của môi trường đầu tư có tác động tới cả chu kỳ dự án ĐTNN, kể từ khi nhà ĐTNN bắt đầu tìm hiểu về môi trường đầu tư, nắm bắt cơ hội đầu tư để bắt đầu giai đoạn chuẩn bị đầu tư, lập dự án để đưa ra quyết định đầu tư, thực hiện đầu tư để có thể đưa các kết quả của quá trình thực hiện đầu tư vào vận hành, tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh và chấm dứt dự án. Hay, môi trường đầu tư là tổng hoà các yếu tố của nước nhận đầu tư có tác động tới chu kỳ dự án FDI. Một môi trường đầu tư tốt là môi trường đầu tư không chỉ cố gắng thu hút vốn ĐTNN mà còn tạo môi trường hoạt động tốt cho cả quá trình sản xuất kinh doanh cho đến khi nhà đầu tư chấm dứt hoạt động đầu tư. Thứ tư, tác giả cũng muốn nhấn mạnh đến khái niệm môi trường đầu tư tốt. Môi trường đầu tư tốt không chỉ mang lại hiệu quả cho chủ đầu tư mà còn cho nước nhận đầu tư. Lợi nhuận được coi là mục tiêu cuối cùng của các nhà đầu tư, tuy nhiên nếu môi trường đầu tư thuận lợi thì hoạt động đầu tư có hiệu quả, ngược lại, nếu môi trường đầu tư có nhiều yếu tố không thuận lợi thì có thể tạo ra các rào cản cho hoạt động đầu tư, và hiệu quả hoạt động đầu tư không cao và nhà đầu tư sẽ chuyển hướng đầu tư nước khác. Tuy nhiên, cần cân bằng lợi ích kinh tế xã hội với lợi ích mà nhà đầu tư thu được. Về mặt nguyên tắc, môi trường đầu tư tạo điều kiện cho DN đầu tư hiệu quả nhằm góp phần thực hiện các mục tiêu xã hội. Nếu dự án có lợi ích kinh tế xã hội thu được nhỏ hơn chi phí xã hội bỏ ra cho dự án đó thì dự án ĐTNN đó không được chấp nhận đầu tư.


Môi trường đầu tư tốt không chỉ mang lại lợi ích cho bản thân nhà đầu tư, mà còn mang lại lợi ích cho cả nền kinh tế. Do đó, quá trình cải thiện môi trường đầu tư cần gắn bó chặt chẽ với định hướng phát triển kinh tế xã hội, cần khẳng định rõ ràng là cải thiện môi trường đầu tư nhằm thu hút vốn ĐTNN cho phát triển kinh tế xã hội. Thu hút vốn FDI nếu chỉ chú trọng tới lượng vốn không thì chưa đủ mà cần chú ý tới chất lượng FDI, tới định hướng thu hút FDI. Vốn FDI cần thu hút có chọn lọc để góp phần tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững.

Bên cạnh khái niệm môi trường đầu tư, khái niệm môi trường kinh doanh hay môi trường đầu tư kinh doanh cũng được sử dụng rất phổ biến. Có quan điểm đồng nhất hai khái niệm môi trường đầu tư và môi trường kinh doanh, trong khi đó có quan điểm cho rằng hai khái niệm này có sự khác biệt. Ngay bản thân khái niệm môi trường kinh doanh cũng có nhiều định nghĩa khác nhau. “Môi trường kinh doanh được hiểu là tổng thể các yếu tố, các nhân tố bên ngoài và bên trong vận động tương tác lẫn nhau, tác động trực tiếp và gián tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của DN" [15, tr.65], [71]. Theo khái niệm này, môi trường kinh doanh bao gồm môi trường bên trong và môi trường bên ngoài. Những yếu tố bên trong phản ánh điểm mạnh và điểm yếu của DN so với đối thủ cạnh tranh, những yếu tố bên ngoài tạo ra các cơ hội kinh doanh hoặc nguy cơ đến hoạt động kinh doanh của DN. Theo cách hiểu hẹp hơn thì môi trường kinh doanh chỉ bao gồm các yếu tố bên ngoài DN. Môi trường kinh doanh là tập hợp các yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội và công nghệ (PEST), các yếu tố này nằm ngoài tầm kiểm soát và ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh, có thể ảnh hưởng cả tích cực và tiêu cực tới hoạt động kinh doanh của DN [61], [66]. Các yếu tố bên ngoài DN trong khái niệm môi trường kinh doanh cũng được một số tác giả mở rộng hơn gồm yếu tố xã hội, công nghệ, kinh tế, môi trường, chính trị (STEEP) hay yếu tố văn hóa-xã hội, chính trị-luật pháp, kinh tế, tự nhiên, công nghệ (SPENT) [50], [53].

Tóm lại, khái niệm môi trường đầu tư và môi trường kinh doanh có những điểm tương đồng, đều bao gồm các yếu tố có ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư hoặc hoạt động kinh doanh. Như tác giả đã đề cập, khái niệm môi trường đầu tư gồm các

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 13/11/2022