Căn cứ vào thời hạn tín dụng
Mỗi quốc gia, quy định thời hạn tương ứng với các loại tín dụng có thể khác nhau. Ở Việt Nam, theo Thông tư 39/2016/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì căn cứ vào thời hạn, tín dụng ngân hàng gồm các thời hạn như sau:
Tín dụng ngắn hạn: Là hình thức tín dụng ngân hàng có thời hạn tối đa đến 12 tháng. Tín dụng ngắn hạn sử dụng chủ yếu để bù đắp nhu cầu vốn lưu động tạm thời thiếu của các doanh nghiệp và nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của các cá nhân.
Tín dụng trung hạn: Là loại tín dụng của ngân hàng với thời hạn trên 12 tháng đến 60 tháng (5 năm).
Tín dụng dài hạn: Là loại tín dụng của ngân hàng với thời hạn trên 5 năm. Tín dụng trung và dài hạn nhằm bù đắp thiếu hụt vốn trung, dài hạn phục vụ mua sắm tài sản cố định, xây dựng nhà xưởng…
Căn cứ vào bảo đảm của tín dụng
Tín dụng không có đảm bảo: Ngân hàng cấp tín dụng dựa trên cơ sở uy tín, tín nhiệm bản thân khách hàng vay. Người đi vay không cần bất cứ một sự bảo đảm nào bằng tài sản hoặc sự bảo lãnh của bên thứ ba. Như vậy, người đi vay đã bảo đảm cho khoản tín dụng bằng chính uy tín của họ.
Tín dụng có đảm bảo: Ngân hàng cấp tín dụng dựa trên cơ sở phải có sự bảo đảm bằng tài sản của người đi vay hoặc có sự bảo lãnh của chủ thể thứ ba. Tài sản đảm bảo hoặc chủ thể bảo lãnh trong quan hệ tín dụng chính là nguồn thu nợ thứ hai của ngân hàng.
Căn cứ vào hình thức tín dụng
Có thể bạn quan tâm!
- Tổng Quan Nghiên Cứu Liên Quan Và Khoảng Trống Khoa Học
- Nhận Xét Khái Quát Về Các Nghiên Cứu Trước Đây
- Tổng Quan Về Nông Nghiệp Ứng Dụng Công Nghệ Cao
- Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Sự Phát Triển Tín Dụng Ngân Hàng Thương Mại Đối Với Nông Nghiệp Ứng Dụng Công Nghệ Cao
- Lý Thuyết Về Mô Hình Sự Mong Đợi - Sự Chấp Nhận (Ect)
- Đánh Giá Và Kế Thừa Các Nghiên Cứu Có Liên Quan
Xem toàn bộ 297 trang tài liệu này.
Tín dụng bằng tiền: Là loại hình tín dụng của ngân hàng mà hình thức vốn tín dụng được thực hiện bằng tiền tệ. Ngân hàng cấp tín dụng bằng tiền và người đi vay cũng trả nợ bằng tiền.
Tín dụng bằng tài sản: Là loại hình tín dụng của ngân hàng mà hình thức vốn tín dụng được thể hiện bằng tài sản. Ngân hàng cấp tín dụng bằng tài sản và người đi vay trả nợ bằng tiền (ví dụ như hình thức tín dụng thuê mua).
Căn cứ vào phương pháp hoàn trả
Tín dụng trả góp: Trong hình thức tín dụng này, khách hàng vay phải có nghĩa vụ hoàn trả vốn gốc và lãi định kỳ cho ngân hàng. Định kỳ có thể là từng năm, từng quý, từng tháng,…tùy thuộc vào sự thỏa thuận giữa ngân hàng và khách hàng.
Tín dụng phi trả góp: Là loại hình tín dụng mà khách hàng vay phải hoàn trả toàn bộ vốn một lần khi đáo hạn cho ngân hàng.
Tín dụng hoàn trả theo yêu cầu: Là loại hình cấp tín dụng của ngân hàng mà việc thu nợ của ngân hàng được thực hiện theo yêu cầu hoàn trả của người đi vay trên cơ sở khả năng của người đi vay và trong thời hạn hợp đồng đã thỏa thuận.
Căn cứ vào tính chất hoàn trả
Tín dụng hoàn trả trực tiếp: Ngân hàng cấp tín dụng và việc hoàn trả nợ được thực hiện trực tiếp bởi người đi vay.
Tín dụng hoàn trả gián tiếp: Là loại hình cấp tín dụng của ngân hàng mà việc trả nợ không được thực hiện trực tiếp bởi người đi vay mà phải gián tiếp thông qua người thụ lệnh của người đi vay.
2.2.3. Vai trò của tín dụng ngân hàng
Theo Lê Thị Mận (2016), thì tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, thể hiện ở các nội dung sau:
Một là, Thúc đẩy kinh tế phát triển: vì hoạt động huy động vốn và cho vay của ngân hàng thương mại đã góp phần điều hòa vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu, từ đó góp phần duy trì quá trình tái sản xuất được tiến hành một cách thường xuyên liên tục. Sự vận hành liên tục của tín dụng ngân hàng sẽ là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, từ đó kích thích quá trình tiết kiệm và gia tăng vốn cho đầu tư phát triển;
Hai là, Thúc đẩy nhanh quá trình tập trung vốn và tích tụ vốn: Nhờ hoạt động của các ngân hàng thương mại và trung gian tài chính, các nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi nằm rải rác trong dân cư được huy động tạo thành các quỹ cho vay tập trung để cho vay đáp ứng nhu cầu nền kinh tế. Tuy nhiên, nguồn vốn tập trung này không phải được cho vay rải đều cho mọi đối tượng trong xã hội mà được đầu tư một cách tập trung vào những ngành sản xuất then chốt, những khu vực kinh tế trọng điểm, những doanh nghiệp sản xuất có hiệu quả,… từ đó tạo động lực thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế. Sự vận hành liên tục của tín dụng ngân hàng vừa giúp cho các ngân hàng thương mại và trung gian tài chính kinh doanh có hiệu quả, có lợi nhuận trong kinh doanh lại vừa giúp cho khách hàng mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh thu được lợi nhuận tối đa làm cho tổng số vốn của xã hội gia tăng;
Ba là, Góp phần tác động đến việc thực hiện chế độ hạch toán kinh tế. Vì bản chất của tín dụng là có tính hoàn trả cả vốn gốc và lợi tức, do vậy nó buộc các chủ thể vay vốn phải luôn luôn quan tâm đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay, tiết giảm chi phí,…
nhằm nâng cao doanh lợi, để vừa có khả năng trả nợ gốc, trả nợ lãi mà vẫn có lợi nhuận. Sự thẩm định, kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc sử dụng vốn vay của ngân hàng cũng góp phần giúp các doanh nghiệp nâng cao ý thức chấp hành nghiêm túc nguyên tắc hạch toán kinh tế; lấy thu bù chi, có doanh lợi;
Bốn là, Tạo điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế, đối ngoại: Thông qua hoạt động tài trợ ngoại thương, đã góp phần thúc đẩy việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2.3. Tổng quan về tín dụng ngân hàng thương mại đối với sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
2.3.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng thương mại đối với sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
Theo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2017) thì cho vay nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao là việc các NHTM cho vay các pháp nhân và cá nhân có nhu cầu vay vốn để thực hiện dự án, phương án sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch theo tiêu chí xác định chương trình, dự án nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch quy định tại Quyết định số 738/QĐ-BNN-KHCN ngày 14/3/2017 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Từ những phân tích về khái niệm tín dụng NHTM, các khái niệm, đặc trưng về NNCNC, có thể rút ra kết luận: Tín dụng ngân hàng thương mại (trên phương diện nghiệp vụ cho vay) đối với sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao là việc các ngân hàng thương mại sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để thực hiện cho vay đối với pháp nhân và cá nhân sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao với những tiêu chí và điều kiện quy định trong một thời gian nhất định mà hai bên đã thoả thuận dựa trên nguyên tắc có hoàn trả. Khi đến hạn, bên vay có nghĩa vụ hoàn trả giá trị vay ban đầu và tiền lãi.
2.3.2. Đặc điểm của tín dụng ngân hàng thương mại đối với sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
Từ những đặc trưng cơ bản của sản xuất NNCNC, luận án nhận thấy sản xuất NNCNC có những khác biệt cơ bản đối với sản xuất nông nghiệp truyền thống, điều này đã làm ảnh hưởng đến hoạt động cấp tín dụng của các NHTM, cụ thể như sau:
Một là, Sản xuất NNCNC thường được tiến hành tập trung thành từng vùng, hay từng khu với nhu cầu vốn đầu tư lớn, điều này làm cho chi phí tổ chức cho vay của các NHTM giảm xuống. Cho vay nông nghiệp nông thôn trước đây, đặc biệt là cho vay đối với các hộ
nông dân, chi phí nghiệp vụ cho một đồng vốn vay thường cao hơn những lĩnh vực khác do quy mô từng món vay khá nhỏ; đồng thời số lượng khách hàng đông, phân bố ở khắp nơi nên tốn nhiều chi phí tổ chức mạng lưới, chi phí thẩm định, theo dõi khách hàng v.v. Tuy nhiên, đối với cho vay NNCNC thì ngược lại. Vì sản xuất NNCNC hầu hết đều có quy mô lớn, vốn đầu tư nhiều, dẫn đến số tiền cho vay từng món cũng lớn hơn, dư nợ bình quân trên mỗi khách hàng cũng cao hơn, do đó không tốn nhiều chi phí như cho vay nông nghiệp thông thường;
Hai là, Sản xuất NNCNC thường được tiến hành trong nhà kính với hệ thống tưới nhỏ giọt và điều chỉnh ánh sáng phù hợp với chu kỳ sinh trưởng của cây trồng, điều này làm giảm sự phụ thuộc vào điều kiện thời tiết, giảm rủi ro do thiên tai, nâng cao năng suất và chất lượng cây trồng. Vì vậy khi cho vay NNCNC thì rủi ro do khách quan từ thiên nhiên và môi trường xung quanh đem lại không còn là vấn đề lớn như sản xuất nông nghiệp truyền thống trước đây;
Ba là, Trong sản xuất nông nghiệp truyền thống, vụ, mùa quyết định thời điểm cho vay và thu nợ. Chu kỳ sống tự nhiên của cây trồng, vật nuôi là yếu tố quyết định để tính toán thời hạn cho vay. Chu kỳ ngắn hay dài phụ thuộc vào loại cây giống hoặc con giống và quy trình sản xuất, do đó các NHTM thường cho vay nông nghiệp truyền thống là vay ngắn hạn. Ngược lại, sản xuất NNCNC cần vốn đầu tư cơ bản ban đầu lớn và với việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất NNCNC cho phép lai tạo nhiều giống mới có năng suất, sản lượng cao hơn và thời gian sinh trưởng và phát triển ngắn hơn. Do đó khi cho vay NNCNC phải kết hợp tính toán phân bổ chi phí khấu hao tài sản đầu tư và chu kỳ sinh trưởng của sản phẩm để quyết định thời gian thu hồi nợ phù hợp, nếu áp dụng cho vay ngắn hạn đối với NNCNC sẽ gây nhiều khó khăn cho người vay khi đến thời điểm đáo hạn;
Bốn là, Đầu tư xây dựng hệ thống nhà lưới, nhà kính, hệ thống tưới tiêu, chiếu sáng trong sản xuất NNCNC có giá trị lớn nhưng hầu như không được các NHTM định giá khi xem xét cho vay vì khả năng chuyển hóa thành tiền (khi thanh lý tài sản) của các tài sản này rất thấp. Việt Nam hầu như chưa có thị trường thứ cấp đối với loại tài sản này và cho đến nay vẫn chưa có quy định của nhà nước về xác lập quyền sở hữu đối với các công trình này;
Năm là, Về rủi ro tín dụng: Nếu so sánh với các ngành kinh tế khác, nông nghiệp truyền thống được xem là khu vực cho vay hiệu quả, rủi ro ít hơn so với các ngành nghề khác do các món vay có quy mô nhỏ, đa số chỉ chịu rủi ro khách quan từ môi trường tự
nhiên. Tuy nhiên đối với cho vay nông NNCNC, rủi ro từ môi trường tự nhiên hầu như không còn đáng lo ngại, nhưng lại xuất hiện rủi ro về công nghệ, thị trường và rủi ro mất vốn. Nước ta đang bước đầu áp dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp, nếu nghiên cứu không chuyên sâu, bài bản, kỹ thuật áp dụng không đảm bảo, không nắm bắt thông tin thị trường thì có thể dẫn tới thất bại trong sản xuất. Mặt khác, do việc đầu tư trong sản xuất NNCNC đòi hỏi vốn lớn, nên nếu gặp thất bại sẽ rất khó khăn để chuyển sang mô hình nông nghiệp khác;
Sáu là: Việc liên kết trong sản xuất NNCNC cũng tạo điều kiện để các NHTM hình thành các sản phẩm cho vay đặc trưng NNCNC như: Cho vay thông qua chuỗi giá trị, cho vay thông qua các tổ chức đầu mối, cho vay theo dự án, phương án liên kết v.v;
Bảy là, Sản xuất NNCNC cần nhiều vốn, tuy nhiên do các tài sản hình thành trên đất từ vốn vay chưa có quy định về công nhận quyền sở hữu và đăng ký giao dịch bảo đảm nên giá trị tài sản bảo đảm thường được các NHTM định giá thấp. Do đó, các khoản vay cho sản xuất NNCNC thường thấp hơn nhu cầu;
Tám là, Việc cho vay NNCNC đòi hỏi cán bộ tín dụng phải nỗ lực trong việc nắm bắt các công nghệ mới, quy trình sản xuất tiên tiến, các hình thức bảo đảm tín dụng phù hợp để có thể tự tin trong việc thẩm định và đề xuất tín dụng;
Chín là, Việc tiêu thụ thông thường được các nhà xuất và tiêu thụ ký kết hợp đồng trước khi tiến hành sản xuất thông qua các hoạt động liên kết. Đây là đặc trưng quan trọng để thẩm định, đề xuất cho vay không có tài sản bảo đảm, từ đó giảm áp lực đối với tài sản bảo đảm trong cho vay NNCNC.
2.3.3. Vai trò của tín dụng ngân hàng thương mại đối với sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
Ngành sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đòi hỏi vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn lâu dài. Do đó, bên cạnh nguồn vốn tự có của người sản xuất thì nguồn vốn vay nợ chính thức từ bên ngoài, đặc biệt là vốn tín dụng từ các NHTM đã trở thành một nhu cầu quan trọng. Vai trò của vốn tín dụng NHTM đối với NNCNC thể hiện ở các điểm sau:
Một là, Tín dụng ngân hàng có tác dụng tích cực đến sự phát triển theo chiều rộng cũng như chiều sâu của sản xuất NNCNC. Một mặt, tín dụng NHTM tạo điều kiện để người dân đầu tư mở rộng sản xuất bằng cách gia tăng diện tích đất canh tác, qua đó làm gia tăng sản lượng nông sản. Mặt khác, thông qua việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, tích cực áp
dụng các tiến bộ của khoa học công nghệ và kết hợp tối ưu các yếu tố đầu vào, tín dụng ngân hàng đã góp phần làm gia tăng hiệu quả sản xuất NNCNC.
Hai là, Thông qua sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, đã tạo ra các loại cây cho giá trị kinh tế cao, chất lượng tốt nhằm phục vụ tiêu thụ nội địa và xuất khẩu. Sự phát triển của nền sản xuất NNCNC, thông qua sự tài trợ từ nguồn tín dụng ngân hàng, một mặt có tác dụng kích thích phát triển khu vực kinh tế nông nghiệp, nông thôn, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng ngày càng hiện đại, mặt khác còn có tác dụng giúp các nhà đầu tư gia tăng tích lũy, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, xóa đói giảm nghèo bền vững.
Ba là, Tín dụng ngân hàng tham gia vào toàn bộ các công đoạn của chu trình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, từ ươm giống, trồng trọt đến chăm sóc, thu hoạch, chế biến, bảo quản, vận chuyển, tiêu thụ, do đó đã góp phần thúc đẩy sự phát triển đồng bộ và toàn diện chuỗi sản xuất theo giá trị. Ngành sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao bao gồm một chuỗi các công đoạn có mối liên hệ mật thiết với nhau, do đó sự phát triển của một công đoạn cụ thể nào đó sẽ có tác dụng tích cực đến toàn bộ quá trình sản xuất. Ví dụ, sự phát triển của công đoạn chế biến và xuất khẩu sẽ có tác động tích cực thúc đẩy sự phát triển của các công đoạn ươm giống, trồng trọt và chăm sóc cây. Ngược lại, sự phát triển của các công đoạn đầu như tạo giống, trồng trọt và chăm sóc cây trồng cũng tạo điều kiện để các công đoạn cuối như chế biến, đóng gói, tiêu thụ được thực hiện ở mức độ chuyên môn hóa cao, qua đó tạo ra hiệu ứng thúc đẩy sản xuất NNCNC phát triển.
Bốn là, Ngành sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao có quan hệ hữu cơ với nhiều ngành hỗ trợ khác, như ngành vận tải, ngành sản xuất bao bì, ngành sản xuất máy công cụ nông nghiệp, sản xuất nhựa v.v. Sự phát triển của ngành này sẽ tác động đến sự phát triển của các ngành khác. Tín dụng ngân hàng không chỉ cho vay vốn riêng lĩnh vực nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, mà còn tài trợ vốn cho các ngành hỗ trợ, qua đó có tác dụng kích thích sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế.
Năm là, Góp phần ổn định về mặt xã hội. Tín dụng NHTM đối với sản xuất NNCNC góp phần khai thác triệt để các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, sử dụng chúng một cách hiệu quả, góp phần luân chuyển vốn từ nơi hiệu quả thấp đến nơi hiệu quả cao, tạo thêm công ăn việc làm, hướng đến các mục tiêu xã hội như xóa đói giảm nghèo, tăng thu nhập cho người lao động, giảm tệ nạn xã hội và tín dụng đen, góp phần ổn định trật tự xã hội.
Sáu là, Góp phần nâng cao chế độ hạch toán kinh tế cho các DN, HTX khi nhận vốn vay của các NHTM.
Bảy là, Thông qua việc tài trợ vốn cho NNCNC sẽ góp phần tăng thu nhập cho ngân hàng, giúp các NHTM tránh các rủi ro về thanh khoản, tạo tiền đề cho ngân hàng mở rộng và phát triển thêm các sản phẩm cho vay các dịch vụ khác như: thanh toán, bảo lãnh…, giúp thắt chặt mối quan hệ giữa ngân hàng với khách hàng.
Tám là, Thông qua việc tài trợ vốn cho NNCNC sẽ góp phần tăng thu nhập cho người sản xuất, từ đó tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước và thực hiện các mục tiêu tăng trưởng của Chính phủ và các địa phương.
2.3.4. Phát triển tín dụng ngân hàng thương mại đối với nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
2.3.4.1. Quan điểm về phát triển tín dụng ngân hàng thương mại đối với nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
Theo quan điểm của triết học duy vật biện chứng thì phát triển là một quá trình tiến lên từ thấp đến cao. Phát triển không chỉ đơn thuần tăng lên hay giảm đi đơn thuần về lượng mà còn có sự biến đổi về chất của sự vật, hiện tượng. Phát triển là khuynh hướng vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện do việc giải quyết mâu thuẫn, thực hiện bước nhảy về chất gây ra, và hướng theo xu thế phủ định của phủ định (Sachs, Wolfgang, 1992). Như vậy hiểu một cách đơn giản nhất thì phát triển là sự tăng lên về số lượng và chất lượng.
Trong lĩnh vực cho vay của NHTM thì phát triển tín dụng NHTM đối với NNCNC là phát triển đồng thời theo chiều rộng và theo chiều sâu. Phát triển tín dụng theo chiều rộng là sự tăng trưởng về quy mô tín dụng, cơ cấu tín dụng, thành phần khách hàng về tín dụng NNCNC, qua đó tăng thu nhập cho ngân hàng từ hoạt động tín dụng. Và phát triển tín dụng theo chiều sâu là bên cạnh sự tăng trưởng thị phần tín dụng, sự hợp lý hóa về cơ cấu tín dụng, ngân hàng cần quan tâm đến chất lượng tín dụng, chất lượng dịch vụ tín dụng, nâng cao sự hài lòng và đáp ứng nhu cầu hợp lý của khách hàng tham gia sản xuất NNCNC trên cơ sở kiểm soát rủi ro của các khoản cho vay.
2.3.4.2. Các chỉ tiêu đánh giá phát triển tín dụng ngân hàng thương mại đối với nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
Tín dụng là một trong những nghiệp vụ quan trọng, quyết định đến sự tồn tại và phát triển của các NHTM. Để có thể phát triển tín dụng NHTM cho sản xuất NNCNC, cần hiểu
những tiêu chí đánh giá; từ đó, có các biện pháp phù hợp để khắc phục những tồn tại và đẩy mạnh phát triển tín dụng NHTM đối với sản xuất NNCNC cả về lượng và về chất.
Chỉ tiêu tăng trưởng về doanh số cho vay nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
Doanh số cho vay NNCNC là tổng số tiền mà ngân hàng đã giải ngân cho khách hàng vay NNCNC trong một thời gian nhất định, thường được tính theo năm tài chính, các chỉ tiêu đánh giá gồm:
Mức gia tăng doanh số cho vay NNCNC Mức gia tăng DSCV = DSCV(t) – DSCV(t-1)
Trong đó:
Mức gia tăng DSCV: Mức gia tăng doanh số cho vay đối với khách hàng sản xuất NNCNC năm (t) so với năm (t-1).
DSCV(t): Doanh số cho vay đối với khách hàng sản xuất NNCNC năm (t). DSCV(t-1): Doanh số cho vay đối với khách hàng sản xuất NNCNC năm (t-1).
Ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết doanh số cho vay NNCNC năm (t) so với năm (t-1) tăng hay giảm về số tuyệt đối là bao nhiêu, chỉ tiêu này phản ánh sự thay đổi quy mô tín dụng đối với khách hàng trong lĩnh vực sản xuất NNCNC.
Tốc độ phát triển doanh số cho vay NNCNC Tốc độ phát triển DSCV= DSCV(t)X 100
DSCV(t-1)
Trong đó:
Tốc độ phát triển DSCV: Tốc độ phát triển doanh số cho vay đối với khách hàng sản xuất NNCNC năm (t) so với năm (t-1), tính theo số tương đối.
DSCV(t): Doanh số cho vay đối với khách hàng sản xuất NNCNC năm (t). DSCV(t-1): Doanh số cho vay đối với khách hàng sản xuất NNCNC năm (t-1).
Ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết tốc độ phát triển doanh số cho vay NNCNC năm (t) so với năm (t-1) tăng hay giảm bao nhiêu, chỉ tiêu này phản ánh sự thay đổi quy mô tín dụng đối với khách hàng trong lĩnh vực sản xuất NNCNC về số tương đối.
Chỉ tiêu tăng trưởng về dư nợ tín dụng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
Phát triển tín dụng NHTM về NNCNC được phản ánh thông qua sự gia tăng về quy mô và tốc độ dư nợ cho vay. Dư nợ cho vay có thể đánh giá được quy mô cho vay, dư nợ càng cao thì quy mô cho vay càng lớn, một số chỉ tiêu cụ thể như: