Kết Quả Hồi Quy Đối Với Số Lần Kcb Nội Trú


Bảng 5.11 Kết quả hồi quy đối với số lần KCB nội trú



solanNT

OLS

Poisson

zero-truncated Poisson


Hệ số

Sai số

chuẩn

Tác động biên

Sai số

chuẩn

Tác động biên

Sai số

chuẩn

sdBHYTMP (d)

0.137

0.085

0.126

0.078

0.129

0.083

sdBHYTTN(d)

-0.029

0.059

-0.028

0.059

-0.034

0.076

sdBHYTBB(d)

-0.021

0.086

-0.023

0.086

-0.039

0.107

sdBHYTSV(d)

-0.603*

0.238

-0.524***

0.146

-0.508***

0.062

sdBHYTCN(d)

0.062

0.15

0.068

0.149

0.107

0.189

GTNam (d)

0.023

0.064

0.023

0.059

0.028

0.061

Tuoi

0.004

0.002

0.004

0.002

0.005*

0.002

ChuaKH (d)

-0.136

0.083

-0.138

0.077

-0.176*

0.089

SKKem (d)

0.295***

0.065

0.317***

0.058

0.562***

0.067

tsnguoiHoGD

-0.048***

0.013

-0.048***

0.013

-0.056***

0.015

lnthunhap

0.085

0.045

0.081

0.042

0.090*

0.045

Vung1 (d)

-0.200*

0.092

-0.191*

0.082

-0.218**

0.078

Vung2 (d)

-0.052

0.112

-0.054

0.102

-0.073

0.101

Vung3 (d)

-0.076

0.088

-0.072

0.081

-0.079

0.082

Vung4 (d)

-0.128

0.11

-0.122

0.097

-0.143

0.093

Vung5 (d)

-0.239*

0.096

-0.219**

0.081

-0.233**

0.077

Thanhthi (d)

0.047

0.08

0.051

0.078

0.074

0.091

DTKinh (d)

-0.301*

0.124

-0.315*

0.127

-0.417**

0.157

DTHoa (d)

-0.25

0.308

-0.206

0.265

-0.163

0.291

Daihoc (d)

0.109

0.242

0.099

0.244

0.09

0.276

Bangnghe (d)

0.08

0.165

0.075

0.174

0.083

0.269

THPT (d)

0.115

0.096

0.112

0.097

0.133

0.116

THCS (d)

0.108

0.062

0.109

0.063

0.14

0.08

NhaLD (d)

-0.278

0.149

-0.252*

0.126

-0.274*

0.135

GiaosuKysu (d)

0.059

0.158

0.063

0.158

0.075

0.205

VPDV (d)

0.043

0.082

0.036

0.084

0.01

0.115

Congnghiep (d)

0.058

0.073

0.047

0.075

0.008

0.1

LDgiandon (d)

0.098

0.121

0.09

0.13

0.086

0.189

Huutri (d)

0.226*

0.105

0.211*

0.098

0.218*

0.101

Thatnghiep(d)

0.432**

0.163

0.470**

0.181

0.649**

0.231

dihoc (d)

0.763

0.417

0.979

0.581

1.965

1.201

_cons

0.735*

0.342





N=2,141

* p<0.05, ** p<0.01, *** p<0.001

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.

Lựa chọn ngược và rủi ro đạo đức trong Bảo hiểm Y tế Việt Nam - 11


Kết quả hồi quy cho ta thấy có sự khác biệt nhẹ về mức độ tác động và một số biến có ý nghĩa ở mô hình Zero-truncated Poisson nhưng không có ý nghĩa ở Poisson (Tuoi,ChuaKH, lnthunhap). Nghiên cứu sử dụng kết quả ở mô hình zero- truncated Poisson để kết luận.

Đối với KCB nội trú, các biến có ý nghĩa thống kê bao gồm: Tuoi, ChuaKH, SKKem, tongsonguoiHoGD, lnthunhap, Vung 1, Vung 5, DTKinh, NhaLD, Huutri, Thatnghiep, sdBHYTSV.

Kết luận không tồn tại rủi ro đạo đức trong KCB nội trú.


Đầu tiên, ta thấy các biến để đánh giá về rủi ro đạo đức trong BHYT đều không có ý nghĩa thống kê trừ biến sdBHYTSV có tác động âm. Điều này cho thấy không có sự khác biệt về số lần KCB nội trú của người có sử dụng BHYT và không sử dụng BHYT. Riêng biến sdBHYTSV có hệ số mang dấu âm cho thấy người sử dụng BHYT sinh viên có số lần KCB nội trú thấp hơn người không sử dụng BHYT. Điều này có thể giải thích là do đối tượng sinh viên thường có sức khỏe tốt hơn, ít phải điều trị nội trú hơn so với các đối tượng khác. Với kết quả này, nghiên cứu có thể kết luận không tồn tại rủi ro đạo đức trong KCB nội trú. Kết quả này phù hợp với Minh et al (2012), Phương (2013).

Phân tích các biến kiểm soát khác.


Các biến về tuổi, tình trạng hôn nhân, và sức khỏe có cùng cách lý giải như đối với KCB ngoại trú. Biến tổng số người trong hộ không có ý nghĩa ở mô hình KCB ngoại trú nhưng có ý nghĩa ở KCB nội trú. Số người trong hộ tăng lên 1 thì số lần KCB nội trú giảm đi 0,056 lần. Điều này có thể giải thích là khi số người trong hộ gia đình nhiều, có người chăm sóc thì người bệnh thường chọn được theo dõi, điều trị tại nhà hơn là phải nhập viện.

Biến thu nhập có tác động dương đến số lần KCB nội trú. Khác với việc thu nhập không có tác động đến KCB ngoại trú, ở đây có thể cho rằng chi phí để điều trị


nội trú là một vấn đề đáng lưu tâm đối với quyết định nhập viện. Cho dù người bệnh có được miễn phí KCB, thì vẫn phải phát sinh nhiều chi phí về ăn uống, giường bệnh, chăm sóc, bồi dưỡng thầy thuốc…dẫn đến việc đến việc thu nhập là một yếu tố phải cân nhắc trước khi sử dụng dịch vụ nội trú.

Biến Vùng 1 và Vùng 5 đều có tác động âm đến số lần KCB nội trú cho thấy người sống ở Vùng 1 ( Đồng bằng sông Hồng) và Vùng 5 (Đông Nam Bộ) có số lần KCB nội trú ít hơn so với người ở Vùng 6 và các vùng còn lại. Đây là hai vùng có nhiều bệnh viện, việc đi lại dễ dàng nên khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế cao và nhanh hơn. Có lẽ đây là lý do dẫn đến việc người ở Vùng 1 và Vùng 5 ít sử dụng KCB nội trú hơn, với cùng một tình trạng bệnh, nếu người ở các vùng khác phải nhập viện thì họ có thể lựa chọn điều trị ngoại trú và nhập viện ngay khi cần thiết. Không chỉ là việc một người thật sự bệnh mới điều trị nội trú (Minh et al, 2012) mà dựa vào các biến về vùng và tổng số người trong hộ gia đình, tác giả còn cho rằng một người dù thật sự bệnh vẫn có sự cân nhắc trong điều trị nội trú và sẽ lựa chọn các phương án điều trị khác hơn là nội trú nếu như có thể.

Tác giả có cách giải thích tương tự đối với biến dân tộc, khi người dân tộc Kinh có số lần KCB nội trú ít hơn so với người dân tộc thiểu số. Người dân tộc thiểu số với việc được hỗ trợ chi phí KCB cũng như khoảng cách đến bệnh viện xa hơn, điều kiện đi lại khó khăn hơn rất nhiều so với người dân tộc Kinh vì vậy khi bệnh, họ có thể chọn việc điều trị nội trú vì tiện lợi hơn các phương án điều trị khác.

Đối với các biến về nghề nghiệp, người hưu trí và thất nghiệp có số lần KCB nội trú nhiều hơn so với người làm nông nghiệp. Tác giả lựa chọn cách giải thích thiên về thời gian trong trường hợp này. Khi bị bệnh thì người hưu trí, thất nghiệp có thể dễ dàng quyết định nhập viện hơn so với người đi làm. Đối với biến Nhà lãnh đạo có số lần KCB nội trú ít hơn so với các nghề nghiệp khác có thể là do có bác sĩ chăm sóc sức khỏe tại nhà riêng, nên ít phải nhập viện hơn.


Tóm lại, kết quả nghiên cứu cho thấy có tồn tại rủi ro đạo đức trong KCB ngoại trú (đối với loại hình BHYT tự nguyện, miễn phí và bắt buộc ) nhưng không tồn tại rủi ro đạo đức trong KCB nội trú ( ở tất cả các loại hình BHYT). Kết luận này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Minh et al. (2012), Ngãi và Hồng (2012), N.V. Phuong (2013) nhưng khác với Jowett (2001) khi ông không tìm thấy sự hiện diện của rủi ro đạo đức. Sự khác biệt với kết quả của Jowett (2001) có thể đến từ dữ liệu khi ông thực hiện nghiên cứu dựa trên dữ liệu tự khảo sát được tiến hành ở 03 tỉnh Đồng Tháp, Ninh Bình, Hải Phòng vào năm 1999 trong khi nghiên cứu này sử dụng VHLSS 2012. Từ năm 1999 đến nay, đã có nhiều thay đổi đáng kể cả về đời sống xã hội lẫn các chính sách về BHYT.


Tóm tắt chương 5


Chương 5 trình bày kết quả thống kê và kết quả hồi quy, phân tích và đưa ra 03 kết luận chính:

Có lựa chọn ngược trong chương trình BHYT tự nguyện.


Có rủi ro đạo đức trong KCB ngoại trú (BHYT tự nguyện, miễn phí, bắt buộc) Không có rủi ro đạo đức trong KCB nội trú trong tất cả các loại hình BHYT.

Kết quả này phù hợp với một số nghiên cứu trước đây trên dữ liệu VHLSS từ 2004-2010, cho thấy mặc dù có sự thay đổi chính sách về BHYT trong giai đoạn này nhưng lựa chọn ngược và rủi ro đạo đức vẫn chưa được giải quyết.

Chương 5 cho thấy các yếu tố có tác động đến xác suất mua BHYT là vùng, học vấn, thu nhập, dân tộc, thành thị, tổng số người trong hộ và sự hiện diện của rủi ro đạo đức trong KCB ngoại trú của tất cả các loại hình BHYT kể cả BHYT bắt buộc, miễn phí. Kết quả này được xem xét, hệ thống lại và đưa ra hàm ý chính sách trong chương tiếp theo.


CHƯƠNG 6 KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH‌

Thông tin bất cân xứng với hai hệ quả lựa chọn ngược và rủi ro đạo đức là vấn đề lớn của bất kỳ thị trường bảo hiểm nào, kể cả BHYT. Đã có nhiều nghiên cứu được thực hiện tại nhiều quốc gia khác nhau nhằm kiểm định sự tồn tại của hai vấn đề này trong các chương trình BHYT. Tại Việt Nam có nhiều nghiên cứu đã được thực hiện, tuy kết quả không hoàn toàn giống nhau, nhưng đều cho thấy có sự hiện diện của lựa chọn ngược và rủi ro đạo đức tồn tại trong hệ thống BHYT nhà nước.Với nhiều thay đổi về chính sách, cụ thể là Nghị định 62/2009 có hiệu lực thi hành từ tháng 10/2009, chưa có nhiều nghiên cứu được thực hiện trên các bộ dữ liệu mới hơn kể từ năm 2010. Luận văn “Lựa chọn ngược và rủi ro đạo đức trong BHYT Việt Nam” sử dụng VHLSS 2012 có những kết quả sau,

Đối với lựa chọn ngược. Nghiên cứu vẫn tìm thấy sự hiện diện của lựa chọn ngược trong chương trình BHYT tự nguyện mặc dù Nghị định mới đã đưa ra chế độ khuyến khích tham gia BHYT hộ gia đình với việc giảm mức phí kể từ người thứ 2 trở đi ( khoản 6, điểu 3 Nghị định 62/2009). Với việc tổng số người trong hộ có tác động gia tăng xác suất mua BHYT nhưng rất ít cho thấy chế độ giảm mức phí thực sự có ảnh hưởng đến quyết định mua nhưng vẫn không thể loại bỏ được hiện tượng chỉ có người có sức khỏe kém mới thích mua BHYT.

Trong số các yếu tố có tác động đến quyết định mua BHYT, các yếu tố về trình độ học vấn, thu nhập, tổng số người trong hộ, thành thị, dân tộc và vùng được tác giả cho rằng cần lưu ý trong việc thực hiện chính sách.

Trình độ học vấn, đại diện cho nhận thức của cá nhân có tác động tích cực đến quyết định mua BHYT, học vấn càng cao càng gia tăng sự hiểu biết về BHYT, dẫn đến gia tăng xác suất mua BHYT. Ngoài ra, yếu tố thành thị và dân tộc cũng có thể được xem là đại diện cho nhận thức và khả năng tiếp cận y tế khi người sống ở thành thị và dân tộc Kinh có lợi thế về việc tiếp cận thông tin và dễ dàng sử dụng dịch vụ y tế hơn đã dẫn đến gia tăng xác suất mua BHYT.


Yếu tố thu nhập và tổng số người trong hộ có tác động tích cực đến xác suất mua BHYT, điều này cho thấy mức phí BHYT vẫn là một vấn đề lớn đối với người tham gia, khi mức phí giảm hoặc thu nhập tăng dẫn đến tỷ trọng chi cho BHYT trên tổng thu nhập ít hơn sẽ có tác động làm gia tăng xác suất mua. Theo một nghiên cứu của Bộ Y tế, có đến 45% người được phỏng vấn trả lời lý do không tham gia BHYT là do mức đóng cao (Bộ Y tế, 2013, trang 54, bảng 12).

Tuy nhiên, những kết luận về thu nhập, nhận thức trở nên không phù hợp khi đề cập đến yếu tố vùng. Với việc vùng 1 và vùng 5 là hai vùng có thu nhập bình quân cao nhất, có nhiều thuận lợi trong việc tiếp cận thông tin cũng như tiếp cận các cơ sở y tế lại có xác suất mua BHYT thấp hơn các vùng khác. Điều này được tác giả lý giải về mặt chất lượng KCB bằng BHYT. Chất lượng KCB bằng BHYT còn thấp, thủ tục phiền hà và thời gian chờ đợi lâu so với việc KCB bằng dịch vụ cùng với việc người dân ở vùng 1 và vùng 5 có nhiều sự lựa chọn hơn ở các loại hình BHYT tư nhân, các dịch vụ y tế tư nhân dẫn đến xác suất mua BHYT ở hai vùng này thấp.

Đối với rủi ro đạo đức. Kết quả cho thấy có sự hiện diện rủi ro đạo đức trong KCB ngoại trú đối với 03 loại hình BHYT: tự nguyện, miễn phí, bắt buộc và không có rủi ro đạo đức trong KCB nội trú ở tất cả các loại hình BHYT. Kết quả này phù hợp với kết luận của Minh et al. (2012), Phương (2013) dù được thực hiện bằng phương pháp khác và sử dụng VHLSS từ 2004-2008..

Ngoài ra, khi xem xét yếu tố vùng, ta thấy vùng 6 (Đồng bằng sông Cửu Long) có số lần KCB ngoại trú cao hơn so với các vùng khác. Theo nghiên cứu của Jowett (2001), ông tìm thấy tỉnh Đồng Tháp ( thuộc vùng 6) có số lần KCB nhiều hơn so với tỉnh Hải Phòng và lý giải của ông có thể là do khí hậu và môi trường sống. Hướng giải thích này có thể xem là phù hợp vì ngay cả với số lần KCB của những người không có thẻ BHYT ở vùng 6 cũng cao hơn so với các vùng khác. Tuy nhiên, ngoài lý do về khí hậu và môi trường, cần phải xem xét đến cả điều kiện kinh tế xã hội, vị trí địa lý cũng như hành vi rủi ro đạo đức tập trung nhiều ở vùng 6, phải


có nghiên cứu sâu hơn về những đặc điểm vùng có ảnh hưởng đến số lần KCB của người dân ở vùng này.

Trong số 5.771 người có thẻ BHYT khi KCB ngoại trú, có đến 1.383 người (chiếm tỷ lệ 24%) có thẻ nhưng không sử dụng. Điều này đồng nghĩa với việc họ từ bỏ quyền hưởng BHYT và phải thanh toán như người không có thẻ BHYT. Lý do được cho là chất lượng KCB BHYT kém. Tuy nhiên, dù thời gian chờ đợi lâu và thủ tục phiền hà, BHYT vẫn xảy ra rủi ro đạo đức ở KCB ngoại trú đặc biệt là với đối tượng người thất nghiệp trong khi lại không xảy ra đối với KCB nội trú.

Sự khác biệt quan trọng giữa hai mô hình KCB ngoại trú và nội trú được tác giả cho là có ảnh hưởng lớn đến rủi ro đạo đức là yếu tố thu nhập. Thu nhập chỉ có ý nghĩa trong mô hình 2 ( KCB nội trú) nhưng không có ý nghĩa trong mô hình 1 (KCB ngoại trú) và hướng giải thích là do chi phí KCB ngoại trú thấp, dẫn đến việc không có sự cân nhắc khi KCB ngoại trú nhiều lần, thể hiện qua việc thu nhập không có tác động đến số lần KCB. Vì vậy, việc gia tăng phí KCB, đặc biệt đối với các dịch vụ y tế thuộc danh mục KCB ngoại trú có thể là một biện pháp hạn chế rủi ro đạo đức.

Với kết quả tồn tại lựa chọn ngược (chỉ có người có sức khỏe kém mới mua BHYT) và tồn tại rủi ro đạo đức trong KCB ngoại trú, đây là những hai yếu tố được cho là bất lợi đối với quỹ BHYT vì sẽ dẫn đến tình trạng kém an toàn khi số lượng người mua BHYT ít (do người có sức khỏe tốt không mua), mức chi cao do việc sử dụng quá mức cần thiết từ hành vi rủi ro đạo đức.

Tuy nhiên, kết quả quỹ BHYT năm 2012 vẫn kết dư hơn 5,6 tỷ đồng và tính lũy kế từ năm 2010 là gần 13.000 tỷ (Bảng 3.2). Điều này có vẻ mâu thuẫn với kết quả nghiên cứu. Tuy nhiên, việc kết dư là do tăng mức đóng BHYT, tăng mức lương tối thiểu chung dẫn đến mức thu tăng trong khi giá viện phí không thay đổi (Mục 3.1 Chương 3).


Biện pháp gia tăng phí KCB đã được chính phủ thực hiện qua việc ban hành thông tư 04/2012 điều chỉnh mức giá của 447 dịch vụ KCB. Ngoài việc kỳ vọng có thể hạn chế rủi ro đạo đức từ phía người sử dụng, việc tăng giá viện phí cũng được kỳ vọng làm gia tăng tỷ lệ tham gia BHYT do lợi ích hưởng BHYT lớn hơn, đồng thời tăng kinh phí cho việc đầu tư chất lượng KCB. Tuy nhiên, với việc tăng giá các dịch vụ y tế, có thể là chính sách tăng mức phí tham gia BHYT nhằm tránh tình trạng vỡ quỹ, điều này lại có thể làm gia tăng tình trạng lựa chọn ngược. Năm 2014, chính phủ tiếp tục ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT 2008 có hiệu lực từ 1/1/2015, sự thay đổi được cho là quan trọng nhất chính là bắt buộc người muốn tham gia BHYT thì tất cả các thành viên trong hộ cũng phải tham gia nhằm gia tăng độ bao phủ, hạn chế lựa chọn ngược nhưng việc thi hành chính sách này còn gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện.12

Bên cạnh đó, nghiên cứu tìm thấy hành vi rủi ro đạo đức tồn tại cả đối với loại hình BHYT miễn phí trong KCB ngoại trú. Ngoài việc được cung cấp miễn phí BHYT, ngay cả việc KCB cũng được miễn phí vì vậy các chính sách về việc tăng giá dịch vụ y tế không thể hạn chế được hành vi rủi ro đạo đức của người sử dụng BHYT miễn phí. Do đây là những đối tượng thuộc diện chính sách,vì vậy cần tập trung vào việc nâng cao nhận thức.

Hàm ý chính sách

- Nâng cao nhận thức, sự hiểu biết của người dân về BHYT và lợi ích BHYT. Kết quả nghiên cứu cho thấy trình độ học vấn đại diện cho khả năng nhận thức làm gia tăng xác suất mua BHYT. Vì vậy, để gia tăng tỷ lệ tham gia cần phải chú trọng chính sách tuyên truyền về lợi ích của BHYT. Không chỉ tuyên truyền, vận động mà các địa phương còn có thể kết hợp với việc thiết kế các chương trình tặng thẻ BHYT miễn phí dành cho người lớn tuổi trong các hộ gia đình có thu nhập thấp, trung bình, những người có hoàn cảnh khó khăn...để BHYT có thể đến được với


12 Chính sách BHYT hộ gia đình sau 03 tháng triển khai từ 1/1/2015 đã phải tạm dừng thực hiện đến 01/01/2016 do gặp nhiều khó khăn (CV số 777/BHXH-BT ngày 12/03/2015).

Xem tất cả 120 trang.

Ngày đăng: 06/07/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí