phải mở tài khoản tiền gửi và thanh toán tại các ngân hàng nhà nước. Hoạt động tín dụng ngân hàng chủ yếu hướng vào mở rộng cho vay đối với mậu dịch quốc doanh (chiếm 94% tiền cho vay) để mậu dịch quốc doanh thu mua nông lâm hải sản và sản phẩm tiểu thủ công nghiệp, từ đó bán ra theo giá chỉ đạo của Nhà nước để ổn định thị trường. Khu vực nông nghiệp chiếm 4,5% số tiền cho vay của ngân hàng. Nếu chia theo thành phần thì khu vực quốc doanh chiếm tới 88%, hợp tác xã chiếm 5,9%, còn khu vực tư nhân và cá thể chiếm 6,1%.
Thời kỳ này ngân hàng còn mở rộng thu hút vốn nhàn rỗi và cho vay ở nông thôn; giúp nông dân xây dựng các hợp tác xã tín dụng, thực hiện phương châm lấy vốn của dân để giúp dân xây dựng quan hệ vay mượn mới, đấu tranh với nạn cho vay nặng lãi. Ngân hàng Quốc gia còn thực hiện chức năng quản lý ngoại hối. Theo Nghị định số 443/TTg ngày 20 tháng 1 năm 1955, Sở Quản lý Ngoại hối (tiền thân của Ngân hàng Ngoại thương) được thành lập. Tổ chức này có các nhiệm vụ: 1) Quản lý và kinh doanh ngoại hối, không để tiền vốn quốc gia chạy ra ngoài; 2) Quản lý việc mua và bán ngoại hối dưới mọi hình thức (trao đổi tiền mặt, chuyển ngân...); 3) Kiểm soát kinh doanh và chuyển vận vàng, bạc;
4) Nghiên cứu các vấn đề hối đoái, đề nghị các thể lệ về ngoại hối. Theo quy định chỉ Ngân hàng Quốc gia mới được kinh doanh ngoại hối1. Quản lý như vậy là để bảo vệ chủ quyền tiền tệ, đồng thời tập trung ngoại hối cho xây dựng kinh tế.
+ Về giao thông vận tải và bưu điện: Giao thông vận tải và bưu điện sau kháng chiến gặp rất nhiều khó khăn. Nhiều tuyến, đoạn đường bị huỷ hoại; phương tiện vận chuyển thiết bị kỹ thuật phục vụ giao thông vận tải cũ, lạc hậu, lại hư hỏng mất mát nhiều. Mạng lưới điện thoại hầu như không còn gì. Trước khi rút đi thực dân Pháp phá hoại và mang theo các máy móc điện tín, điện thoại, các tài liệu kỹ thuật.
Nhận thấy vai trò quan trọng của giao thông vận tải và bưu điện, tháng 9 năm 1954, Bộ Chính trị đã nêu chủ trương khôi phục xe lửa, đường ô tô, vận tải sông ngòi, bưu điện và coi đây là vấn đề có ý nghĩa
1 Lúc này ngoại hối theo quy định bao gồm tất cả các loại tiền tệ của nước ngoài, tiền bằng vàng, bạc, đồng, ngân phiếu, tín phiếu, tín dụng thư, trái phiếu, chứng thư gửi tiền...
quan trọng bậc nhất, không thể thiếu trong phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội. Tháng 7 năm 1954, Tổng cục đường sắt được thành lập. Sau 3 năm, các tuyến đường sắt Hà Nội - Mục Nam Quan; Hà Nội - Lào Cai; Hà Nội
- Nam Định... được khôi phục. Số đầu máy tăng từ 36 cái (1955) lên 64 cái (1957), số toa xe tăng từ 589 toa lên 802 toa, vận tải hàng hóa và hành khách đều tăng khoảng 3 lần. So với năm 1938, độ dài đường sắt hoạt động năm 1957 chỉ bằng 57,6%, nhưng khối lượng vận tải bằng 123%. Vận tải đường sắt 1957 chiếm tỷ trọng 37% tổng trọng lượng vận tải toàn ngành giao thông (đường bộ chiếm 12%, đường thủy chiếm 50%, đường hàng không chiếm 1%).
Đối với đường bộ, chủ trương của Nhà nước tập trung khôi phục trước hai trục giao thông chính là trục Đông - Tây (Hòn Gai - Hải Phòng
Có thể bạn quan tâm!
- Tình Hình Sản Xuất Công Nghiệp Vùng Tạm Chiếm Năm 1953
- Bình Quân Ruộng Đất Ở Miền Bắc Trước Và Sau Cải Cách Ruộng Đất
- Kết Quả Sản Xuất Nông Nghiệp Giai Đoạn 1955-1957
- Kế Hoạch 5 Năm Lần Thứ Nhất (1961-1965)
- Lịch sử kinh tế Việt Nam Phần 2 - 10
- Lịch sử kinh tế Việt Nam Phần 2 - 11
Xem toàn bộ 205 trang tài liệu này.
- Hà Nội - Hòa Bình - Sơn La - Điện Biên Phủ) và trục Bắc - Nam (Cao Bằng - Bắc Cạn - Thái Nguyên - Hà Nội - Ninh Bình - khu 4 - giới tuyến 17). Sau 3 năm, miền Bắc đã khôi phục và sửa chữa được 3.248 km đường ô-tô trục chính và liên tỉnh, làm mới và nâng cấp 583 km đường lên miền núi, xây mới và sửa chữa 16.370 m cầu. Tính chung, đường bộ năm 1957 đã vượt năm 1939 là 38% và hình thành một hệ thống thông suốt. Một đặc điểm nổi bật về phương tiện vận tải trong giai đoạn này là khu vực quốc doanh tăng lên rất nhanh. Khi kết thúc cuộc kháng chiến mới có 30 xe, đến năm 1955 có 190 xe, 1956 có 390 xe. Đến năm 1958 miền Bắc có khoảng 2640 xe ô tô vận tải và xe chở khách. Vận tải đường bộ chiếm 12% tổng trọng lượng vận tải toàn ngành giao thông. Sự phát triển giao thông vận tải quốc doanh dựa vào đầu tư trang bị mới của Nhà nước. Nó đã có tác dụng rất tốt trong việc vận chuyển hàng hóa trên những đường xa, khó khăn, trong việc điều tiết giá cước, điều tiết lực lượng vận tải tư nhân [Đào Văn Tập, 1990, 125].
Về đường thủy, nhiệm vụ đặt ra trước hết là khôi phục các cảng hiện có là Hải Phòng và Bến Thủy để đảm bảo thông thương với thế giới và giao lưu đường thủy trong nước. Nhìn chung trong giai đoạn này, các bến cảng sẵn có đã được tiếp quản, được tiến hành nạo vét hàng triệu m3 đất phù sa, khơi thông các kênh lạch, trục vớt các phương tiện bị chìm đắm gây ách tắc các cửa sông trong thời kỳ kháng chiến. Về phương tiện vận
tải, ngoài việc tiếp thu các phương tiện kỹ thuật do Pháp để lại, chúng ta đã sửa chữa các thiết bị cũ, lắp ráp các thiết bị mới. Tháng 4 năm 1956, lực lượng Quốc doanh vận tải sông biển được thành lập với một hệ thống xí nghiệp quốc doanh vận tải địa phương. Đầu năm 1957, Quốc doanh vận tải sông biển đã có 9 tàu (170 CV); 36 xà lan vỏ sắt và gỗ (5.345 tấn). Đến cuối năm 1957 có sức chở 8.495 tấn và 2.170 CV. Ngày 11 tháng 8 năm 1956, Bộ Giao thông công chính thành lập Cục vận tải đường thủy. Đến 1957 vận tải đường thủy chuyên chở 5,5 triệu tấn, tăng gấp hơn hai lần so với năm 1955 (2,7 triệu tấn).
Thời kỳ này ta tiếp quản các sân bay và cơ sở hàng không. Ngày 3 tháng 3 năm 1955 thành lập Ban nghiên cứu sân bay, trực thuộc Tổng tham mưu trưởng quân đội nhân dân Việt Nam. Ngày 15 tháng 1 năm 1956 thành lập Cục hàng không dân dụng Việt Nam trực thuộc Bộ Quốc phòng. Nhiệm vụ ngành hàng không chủ yếu là phục vụ quốc phòng, các nhiệm vụ chính trị, ngoại giao, đối ngoại của Đảng và Nhà nước... Ngày 5 tháng 4 năm 1956, Cục hàng không dân dụng Việt Nam ký với Trung Quốc Hiệp định vận chuyển hàng không giữa hai nước. Sau đó, vào ngày 20 tháng 6 năm 1959, Việt Nam và Liên Xô ký Hiệp định về vận chuyển hàng không giữa hai nước [Đặng Phong, 2005, tập 2, 349].
Ngành Bưu điện trong những năm này được quan tâm đầu tư nên có sự phát triển mạnh. Ngày 14 tháng 3 năm 1955 Tổng cục Bưu điện Việt Nam được thành lập trực thuộc Bộ Giao thông và Bưu điện. Đây là cơ quan hành chính sự nghiệp chuyển sang làm kinh doanh. Ngoài chức năng điện chính và bưu chính, ngành còn có chức năng phát hành báo chí. Trọng điểm công tác của thời gian này là xây dựng hệ thống đường dây điện thoại, mạng lưới điện báo, mở các đường thư tới mọi miền đất nước và liên kết với quốc tế.
Khối lượng công tác bưu điện, thông tin liên lạc được thực hiện ngày càng tăng lên. Năm 1957 so với 1955 số bưu phẩm gửi đi tăng gấp 2 lần, còn bưu điện tăng 8 lần, thư 3,3 lần, điện báo gấp 1,3 lần, điện thoại đường dài 1,9 lần. Thu từ bưu chính tăng gấp 2,75 lần, điện chính 2,33 lần. Với khả năng như vậy, ngành bưu điện đã đáp ứng cơ bản được yêu cầu giao lưu và trao đổi tin tức của lãnh đạo và nhân dân. Đặc biệt,
bưu điện, thông tin liên lạc đã phục vụ đắc lực cho công tác đột xuất như cải cách ruộng đất, sửa sai, chống cưỡng ép di cư, chống bão lụt, hộ đê... [Đào Văn Tập, 1990, 128].
b. Cải tạo và phát triển kinh tế (1958-1960)
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, các nước đều phải thực hiện hai nhiệm vụ: cải tạo xã hội chủ nghĩa và công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Thực hiện nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa là để xoá bỏ các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, tạo ra nền kinh tế có hai thành phần: quốc doanh và tập thể, tương ứng với hai hình thức sở hữu là toàn dân và tập thể. Còn thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật tương ứng với quan hệ sản xuất mới. Thực hiện hai nhiệm vụ này nhằm tạo ra phương thức sản xuất mới của chủ nghĩa xã hội.
Sau khi hoàn thành kế hoạch 3 năm khôi phục kinh tế, từ năm 1958 đến 1960, miền Bắc bước sang giai đoạn thực hiện kế hoạch 3 năm cải tạo xã hội chủ nghĩa và bước đầu phát triển kinh tế, văn hoá.
• Cải tạo xã hội chủ nghĩa
- Chủ trương của Đảng và Nhà nước
Hội nghị Trung ương lần thứ 14 của Đảng (tháng 11 năm 1958) đã nêu chủ trương: "đẩy mạnh cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công và cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế tư bản, tư doanh" [Đào Văn Tập, 1990, 37]. Tại kỳ họp thứ 9 (tháng 12/1958), Quốc hội đã thông qua Kế hoạch 3 năm cải tạo xã hội chủ nghĩa, bước đầu phát triển kinh tế và văn hoá miền Bắc với các nhiệm vụ chủ yếu sau:
1) Đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, lấy sản xuất nông nghiệp làm khâu chính, chủ yếu nhằm giải quyết vấn đề lương thực, đồng thời chú trọng sản xuất công nghiệp, hết sức tăng thêm các tư liệu sản xuất và giải quyết phần lớn hàng tiêu dùng.
2) Cải tạo nông nghiệp, thủ công nghiệp và công thương nghiệp tư bản tư doanh theo hướng xã hội chủ nghĩa, khâu chính là hợp tác hóa
nông nghiệp, đồng thời tích cực phát triển và củng cố thành phần kinh tế quốc doanh.
3) Trên cơ sở phát triển sản xuất, nâng cao thêm một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân, nhất là đời sống của nhân dân lao động; tăng cường củng cố quốc phòng.
- Diễn biến và kết quả
+ Đối với nông nghiệp
Do vị trí, tầm quan trọng của nông nghiệp và nông dân, cải tạo xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp được coi là khâu chính. Để biến người nông dân cá thể thành người nông dân tập thể, phải thông qua con đường hợp tác hóa nông nghiệp, kết hợp cải tạo với cải tiến kỹ thuật và giáo dục tư tưởng. Đây là "con đường đúng đắn duy nhất để đưa nông dân miền
Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội"1. Đảng ta cũng xác định rõ: "Hợp tác hóa
nông nghiệp là cái khâu chính trong toàn bộ dây chuyền cải tạo xã hội chủ nghĩa ở Miền Bắc nước ta"2. Vận dụng lý luận hợp tác hóa của Lê nin, Đảng ta đề ra ba nguyên tắc tiến hành hợp tác hoá, đó là: tự nguyện, cùng có lợi và quản lý dân chủ3. Hợp tác hóa đi trước cơ giới hóa, đi đôi với thủy lợi hóa và cải tiến kỹ thuật; Bước đi trình tự từ thấp đến cao: tổ đổi công lên hợp tác xã bậc thấp và hợp tác xã bậc cao; từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn.
Phong trào hợp tác hóa đã diễn ra với tốc độ nhanh. Năm 1957 có 21,9% tổng số hộ nông dân tham gia tổ đổi công và hợp tác xã (có 45 hợp tác xã với 0,03% số hộ nông dân). Cuối năm 1960, tuyệt đại bộ phận
1 Nghị quyết Hội nghị Trung ương 14 (tháng 11 năm 1958), Ban chấp hành trung ương Đảng Lao động Việt Nam, 1959, tr. 24.
2 Văn kiện của Đảng về Đường lối phát triển nông nghiệp Miền Bắc nước ta, sđd, tr.16.
3 1) Tự nguyện là phải để nông dân thấy được tính hơn hẳn của HTX đối với sản xuất cá thể mà tự nguyện, tự giác tham gia, nhất thiết không được cưỡng ép, mệnh lệnh dưới bất kỳ hình thức nào; 2) Cùng có lợi là đối với những tư liệu sản xuất của xã viên đưa vào HTX cũng như khi sắp xếp công việc, bình công chấm điểm, chia hoa lợi... phải giải quyết một cách hợp lý trong mối quan hệ giữa lợi ích chung của HTX với lợi ích riêng của xã viên;
3) Quản lý dân chủ trên ba mặt là lao động sản xuất, tài vụ và các việc khác đều phải bàn bạc dân chủ và do tập thể xã viên quyết định, không được độc đoán, mệnh lệnh...
nông dân đã tham gia hợp tác xã, toàn miền Bắc có 41.400 hợp tác xã (có quy mô bình quân là 33 ha ruộng đất và 68 hộ trên một hợp tác xã), bao gồm 73% tổng diện tích canh tác và 85,8% số hộ nông dân, hợp tác xã bậc cao chiếm 11,8% số hộ nông dân với 4.400 hợp tác xã. Trong hợp tác xã bậc thấp, ruộng đất, trâu bò và các nông cụ chủ yếu tuy vẫn thuộc sở hữu của xã viên nhưng đều đưa vào hợp tác xã, do hợp tác xã thống nhất quản lý và sử dụng. Nông dân được hưởng hoa lợi ruộng đất bằng 25%-30% số thu hoạch của ruộng đất đưa vào hợp tác xã [Đào Văn Tập, 1990, 39]. Mục đích của cách làm này là để cho nông dân quen dần với làm ăn tập thể, đồng thời cũng phù hợp với trình độ quản lý hợp tác xã khi đó.
Hợp tác hóa mở ra khả năng thu hút các lực lượng lao động dư thừa vào sản xuất, khi cần thiết, có thể huy động nhanh một số lượng rất lớn nhân lực phục vụ các mục tiêu kinh tế - xã hội đột xuất. Hợp tác hóa đã mở ra quan hệ dân chủ, bình đẳng, mở rộng giao tiếp xã hội trong cộng đồng nông thôn [Lê Mậu Hãn & cộng sự, 2013, tập 4, 193]. Như vậy, thực hiện nhiệm vụ hợp tác hóa nông nghiệp đến cuối năm 1960 cơ bản đã hoàn thành. Tuy nhiên, xét theo phương châm "vững chắc" thì chưa đảm bảo, vì phong trào tiến quá nhanh (trong 6 tháng), chất lượng nhiều hợp tác xã yếu kém. Tính "không vững chắc" thể hiện rõ trong 2 năm 1958-1959, ở 13 tỉnh đã có 5.585 hộ nông dân xin ra hợp tác xã, ở 7 tỉnh có trên 20 hợp tác xã bị giải tán [Dẫn theo Đào Văn Tập, 1990, 43].
+ Đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh
Sau thời kỳ khôi phục kinh tế, thành phần kinh tế tư bản tư doanh đã bắt đầu ổn định và tăng trưởng. Các nhà tư sản có vốn lớn, tập trung chủ yếu ở các thành phố (Hà Nội, Hải Phòng). Nhìn chung, các hộ tư sản miền Bắc là những nhà kinh doanh nhỏ, sản xuất bằng công cụ thủ công là chính. Căn cứ vào so sánh lực lượng giữa giai cấp vô sản, vào thái độ chính trị và khả năng kinh tế của giai cấp tư sản dân tộc, miền Bắc quyết định: cải tạo hòa bình đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh. Nhà nước không tịch thu, trưng thu mà áp dụng chính sách chuộc lại và trả dần đối với tư liệu sản xuất của giai cấp tư sản, thông qua các hình thức
gia công, đặt hàng, kinh tiêu, đại lý, xí nghiệp công tư hợp doanh và xí nghiệp hợp tác; kết hợp các biện pháp cải tạo kinh tế với cải tạo tư tưởng.
Trong cải tạo, Nhà nước phân định rõ quy mô lớn và nhỏ. Đối với xí nghiệp tư bản lớn, hình thức cải tạo chủ yếu là công tư hợp doanh. Ở đó, toàn bộ tài sản của xí nghiệp tư nhân được kiểm kê, định giá, từ đó định lãi hàng tháng, lãi này được coi là số tiền chuộc lại mà xã hội trả dần cho nhà tư sản. Các nhà tư sản và lao động gia đình họ được sắp xếp công việc, kể cả trong bộ máy quản lý xí nghiệp. Ngoài thu nhập từ lao động, hàng tháng nhà tư sản được nhận một khoản lợi tức. Đây được coi là hình thức trả dần giá trị tài sản cho nhà tư bản (tính theo phần trăm trên tổng số giá trị tài sản kiểm kê khi đưa vào xí nghiệp công tư hợp doanh).
Đối với các cơ sở tư nhân nhỏ, chủ yếu bằng hình thức xí nghiệp hợp tác, trong đó quyền quản lý kinh doanh thuộc về tập thể công nhân, nhà tư sản được hưởng lãi theo cổ phần. Trong quá trình cải tạo tư bản tư doanh, Nhà nước đã kết hợp các biện pháp kinh tế với các biện pháp vận động, giáo dục tư tưởng cho các nhà tư bản. Về thực chất, các xí nghiệp công tư hợp doanh và xí nghiệp hợp tác đã mang tính chất xã hội chủ nghĩa [Dẫn theo Đào Văn Tập, 1990, 40]. Cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh căn bản hoàn thành vào cuối năm 1960. Kết quả đã chuyển 729 xí nghiệp tư bản tư doanh thành 661 xí nghiệp công tư hợp doanh và 68 xí nghiệp hợp tác; 1.489 hộ tư sản thương nghiệp (chiếm 99,4% tổng số hộ) được cải tạo; chuyển 9.481 công nhân làm thuê thành công nhân viên xí nghiệp công tư hợp doanh, trong đó 400 người được đề bạt chánh, phó quản đốc, trưởng và phó phân xưởng. Một số nhà tư sản tích cực được bổ nhiệm vào các chức vụ lãnh đạo mới của xí nghiệp [Đinh Quang Hải, tập 8, 2017, 67].
Cùng với quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công nghiệp tư bản tư doanh và tiểu thủ công nghiệp, công tác quản lý xí nghiệp cũng được cải tiến và củng cố; vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng ở xí nghiệp được xác lập. Nhiều xí nghiệp đã thực hiện chế độ hạch toán kinh tế, xây dựng các định mức kinh tế - kỹ thuật. Các thể lệ, chế độ quản lý, điều lệ về kỷ luật lao động và nội quy xí nghiệp lần lượt được ban hành. Việc
xóa bỏ thành phần kinh tế tư bản tư doanh đã gắn với việc giải phóng trực tiếp đội ngũ công nhân, những người đang làm thuê trong các cơ sở tư nhân. Thực chất của cải tạo để xây dựng, xây dựng trên cơ sở cải tạo, vừa cải tạo cái cũ, đồng thời phát triển cái mới.
+ Đối với tiểu thương, tiểu chủ, dịch vụ cá thể
Trước cải tạo xã hội chủ nghĩa, toàn Miền Bắc có gần 180.000 hộ tiểu thương, khoảng gần 300.000 hộ thủ công nghiệp, 12.339 hộ làm nghề muối cùng hàng vạn cư dân ngư nghiệp. Lực lượng lao động phi nông nghiệp tư nhân tồn tại cũng khá độc lập và ở thành thị, tỷ lệ số thợ, tiểu chủ, tiểu thương còn phát triển nhanh hơn vùng nông thôn. Năm 1957, tổng số thợ thủ công, tiểu chủ ở thành phố chiếm chưa đầy 1/4 tổng số lực lượng thuộc nhóm, thì đến cuối 1960 chiếm tới 3/5 tỷ lệ cùng nhóm. Trong điều kiện cụ thể của từng khu vực, của một nền kinh tế - xã hội dựa trên nền tảng cơ bản là nông nghiệp, công nghiệp nhỏ bé, kinh tế hàng hóa mới phát triển như miền Bắc thì hoạt động thủ công nghiệp, thương nghiệp, cả tiểu thương, đã mang lại nhân tố tích cực góp phần cải thiện mức sống của nhân dân; thoát khỏi sự ràng buộc của sắc thái kinh tế tự cung tự cấp, có ý nghĩa to lớn và là bài học cho nền kinh tế nhiều thành phần hiện nay.
Đối với thợ thủ công, Nhà nước có chủ trương đưa thợ thủ công vào các hình thức hợp tác từ thấp đến cao. Lực lượng này được đưa vào các hợp tác xã sản xuất tiểu thủ công nghiệp hoặc trong tổ sản xuất chuyên nghiệp. Nhà nước đã dùng các hình thức thích hợp để cải tạo tiểu thương. Đại bộ phận tiểu thương được đưa vào các hợp tác xã nông nghiệp [Lê Mậu Hãn & cộng sự, 2013,T4, 195].
Cuối năm 1960, miền Bắc căn bản hoàn thành cải tạo đối với tiểu thương, tiểu chủ, những người sản xuất thủ công cá thể. Đã có 260.000 người vào hợp tác xã và tổ sản xuất, trong đó có 137.400 người vào hợp tác xã và 1.256.200 người vào tổ hợp tác, đạt 87,9% tổng số hộ tiểu - thủ công nghiệp thuộc diện cải tạo. Toàn miền Bắc có 401.103 người là lao động thủ công nghiệp với 78.453 cơ sở sản xuất, được phân theo cơ cấu các hình thức tổ chức: hợp tác xã là 22,3%, tổ hợp tác là 28,7%, tiểu công nghiệp trong hợp tác xã nông nghiệp là 20,6%, thủ công cá thể