Bình Quân Ruộng Đất Ở Miền Bắc Trước Và Sau Cải Cách Ruộng Đất

thường, công nghiệp quốc phòng phát triển mạnh, các ngành công nghiệp dân dụng, giao thông vận tải, thương nghiệp quốc doanh, tài chính, tiền tệ đều có thành tựu đáng ghi nhận.

Qua thực tiễn lịch sử của giai đoạn này, có thể rút ra một số kinh nghiệm xây dựng, phát triển kinh tế sau đây:

- Một nước nông nghiệp lạc hậu có thể vừa kháng chiến vừa kiến quốc thành công nếu biết xây dựng một nền kinh tế phù hợp, trong đó phát huy tối đa sức mạnh của dân dựa trên tinh thần tự lực cánh sinh. Xây dựng nền kinh tế tự chủ nhưng không nên coi nhẹ sự giúp đỡ từ bạn bè quốc tế.

- Coi trọng nông nghiệp, đặt nông nghiệp lên hàng đầu; có những chính sách, biện pháp tích cực để phát triển nông nghiệp kết hợp với giải quyết vấn đề dân chủ cho nông dân (giảm tô tức, thực hiện "người cày có ruộng") để tạo thêm sức mạnh, góp phần đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.

- Kết hợp hài hòa giữa huy động và bồi dưỡng sức dân. Đảng và Chính phủ phải có những biện pháp hiệu quả huy động sự đóng góp tự nguyện của nhân dân; nhưng cũng phải chăm lo bồi dưỡng sức dân cho tốt.

- Nghiêm túc nhìn nhận và rút kinh nghiệm về những sai lầm trong việc kiểm soát giá cả, nóng vội đưa người sản xuất cá thể vào làm ăn tập thể ở một số nơi để không lặp lại trong hoạt động kinh tế ở các giai đoạn sau.


Tài liệu tham khảo

[1] Bộ Thương mại và Du lịch (1992), Biên niên sự kiện ngoại thương Việt Nam (1945-1990), Hà Nội.

[2] Bộ Tài chính, Viện nghiên cứu tài chính (2001), Tài chính Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử, Nxb. Tài chính, Hà Nội.

[3] Trường Chinh (1959), Kháng chiến nhất định thắng lợi, Nxb. Sự thật, Hà Nội.

[4] Phạm Minh Chính, Vương Hoàng Quân (2009), Kinh tế Việt Nam thăng trầm và đột phá, Nxb. Chính trị Quốc gia.

[5] Đinh Thị Thu Cúc (Chủ biên, 2017), Lịch sử Việt Nam, tập 10, từ năm 1945 đến năm 1946, Nxb. Khoa học Xã hội.

[6] Nguyễn Trí Dĩnh & các cộng sự (2013), Giáo trình Lịch sử kinh tế, Nxb. Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

[7] Trần Quốc Dụ & cộng sự (2000), Đồng bạc tài chính, đồng bạc cụ Hồ (1945-1954), Nxb. Tài chính.

[8] Lê Mậu Hãn & cộng sự (Chủ biên, 2013), Lịch sử Việt Nam, tập IV, 1945-2005, Nxb. Giáo dục.

[9] Nguyễn Anh Huy (2013), Lịch sử tiền tệ Việt Nam (sơ truy & lược khảo), Nxb. Văn hóa - Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh.

[10] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

[11] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

[12] Nguyễn Ngọc Minh (1966), Kinh tế Việt Nam từ Cách mạng Tháng Tám đến kháng chiến thắng lợi, Nxb. Sự thật, Hà Nội.

[13] Đặng Phong (Chủ biên, 2005), Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945-2000, tập I: 1945-1954, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

[14] Lê Quốc Sử (1998), Một số vấn đề về lịch sử kinh tế Việt Nam,

Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

[15] Đào Văn Tập (Chủ biên, 1990), 45 năm kinh tế Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

[16] Thng Tien Tat (2016), Lịch sử tiền giấy Việt Nam: Những câu chuyện chưa kể, Nxb. Văn hoá - Văn nghệ.

[17] Nguyễn Ngọc Thanh (Chủ biên, 2013), Lịch sử kinh tế, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.

[18] Tổng cục Thống kê (1990), Việt Nam - Con số và sự kiện 1945-1989, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1990.

[19] Viện kinh tế (1966), Kinh tế Việt Nam từ cách mạng tháng Tám

đến kháng chiến thắng lợi (1945-1954), Nxb. Khoa học Xã hội.

[20] Viện Kinh tế - Kỹ thuật thương nghiệp (1981), 30 năm xây dựng và phát triển thương nghiệp xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1951-1981, Hà Nội.


Nội dung ôn tập


[1] Kinh tế nước ta trong thời gian từ tháng 9/1945-12/1946.

[2] Kinh tế vùng tự do kháng chiến trong giai đoạn 1947-1950.

[3] Kinh tế vùng tự do kháng chiến trong giai đoạn 1951-7/1954.


Nội dung thảo luận


[1] Kinh tế nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trong hơn một năm đầu sau cách mạng tháng Tám (9/1945-12/1946).

[2] Đặc điểm tình hình kinh tế nước ta trong vùng tự do (1947-1954).


Chương 5

KINH TẾ CẢ NƯỚC THỜI KỲ 1955 ‐ 1975


5.1. KINH TẾ MIỀN BẮC

5.1.1. Bối cảnh lịch sử và đường lối kinh tế

5.1.1.1. Bối cảnh lịch sử

Sau thế chiến lần thứ hai (1939-1945), trên thế giới dần hình thành hai lực lượng chính đối lập, đối kháng nhau trên mọi phương diện. Đó là hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa và hệ thống các nước tư bản chủ nghĩa. Đứng đầu hệ thống xã hội chủ nghĩa là Liên Xô, còn đứng đầu hệ thống tư bản chủ nghĩa là Mỹ. Hai hệ thống này kiềm chế, kình chống lẫn nhau trong một cuộc chiến tranh mới được gọi là "chiến tranh lạnh". Các nước thành viên trong hai hệ thống đã tiến hành xây dựng, phát triển kinh tế theo hai con đường khác nhau. Các nước tư bản phát triển kinh tế của nước mình theo những dạng khác nhau nhưng vẫn thuộc phạm trù kinh tế tư bản chủ nghĩa. Còn các nước xã hội chủ nghĩa thì xây dựng, phát triển kinh tế theo mô hình Liên Xô. Ảnh hưởng của Liên Xô đối với các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa thời kỳ này rất mạnh mẽ.

Sau 9 năm chiến đấu gian khổ và anh dũng, nhân dân ta đã giành được thắng lợi quyết định trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Ngày 20 tháng 7 năm 1954, Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương được các bên ký kết. Chính phủ Pháp buộc phải công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Quân đội của họ phải rút khỏi Việt Nam. Vĩ tuyến 17 được lấy làm giới tuyến quân sự tạm thời để lực lượng hai bên rút quân tập kết. Theo quy định của Hiệp định Giơnevơ thì sau hai năm, đến tháng 7 năm 1956, hai bên sẽ tổ chức Tổng tuyển cử tự do thống nhất đất nước.

Tuy vậy, do sự can thiệp của đế quốc Mỹ vào khu vực châu Á, khiến tình hình ở Việt Nam không diễn ra theo tinh thần của Hiệp định Giơnevơ.

Ngày 29 tháng 12 năm 1954, Mỹ đã ép Pháp ký hiệp ước trao quyền hành chính ở miền Nam Việt Nam cho Ngô Đình Diệm thời gian bắt đầu từ giữa năm 1955. Bên cạnh đó, Mỹ còn lôi kéo một số nước thành lập Khối liên minh quân sự Đông Nam Á (SEATO) và đặt ba nước Đông Dương dưới sự bảo hộ của khối này. Từ đây Mỹ trực tiếp can thiệp và thực hiện chia cắt Việt Nam lâu dài; biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của họ ở Đông Nam Á. Mỹ cũng tìm cách ngăn chặn ảnh hưởng của các nước xã hội chủ nghĩa xuống khu vực này và răn đe phong trào giải phóng dân tộc đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới. Mỹ còn tiến hành các hoạt động phá hoại Chính phủ Liên hiệp Lào, thực hiện âm mưu lật đổ chính phủ trung lập ở Campuchia và hình thành liên minh thân Mỹ trên bán đảo Đông Dương [Trần Đức Cường, Lịch sử Việt Nam, tập 12, 2017, 23-24].

Trước tình hình đó, Đảng và Chính phủ ta đã có những chủ trương, chính sách phù hợp để lãnh đạo nhân dân miền Bắc thực hiện nghiêm chỉnh Hiệp định Giơnevơ, đồng thời kịp thời chuyển hướng khi đế quốc Mỹ, Chính quyền miền Nam phá hoại hiệp định, thực hiện chia cắt lâu dài đất nước.

Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc thời kỳ này nhận được sự viện trợ, giúp đỡ to lớn về cả vật chất và tinh thần từ Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác. Đây là thuận lợi cơ bản cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của miền Bắc khi bước vào thời kỳ quá độ. Tuy nhiên, do bối cảnh đất nước chia làm hai miền, đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn luôn có âm mưu và hành động phá hoại thì công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát triển kinh tế ở miền Bắc gặp khó khăn không nhỏ. Đường lối xây dựng phát triển kinh tế của miền Bắc thời kỳ này chịu ảnh hưởng từ mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa và có sự tác động không nhỏ của cuộc chiến tranh Việt - Mỹ.

5.1.1.2. Đường lối kinh tế

Khi bước vào thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, miền Bắc nước ta có "một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, chủ yếu dựa trên sản xuất nhỏ cá thể, cơ sở kinh tế của chủ nghĩa tư bản để lại hết sức kém cỏi và

non yếu. Công nghiệp nhỏ bé, mới phôi thai. Nông nghiệp và thủ công có tính chất phân tán, chiếm bộ phận lớn trong nền kinh tế quốc dân. Hơn nữa, miền Bắc lại bị tàn phá nặng nề bởi 15 năm chiến tranh" [Nguyễn Trí Dĩnh & cộng sự, 2013, 550]. Đây là đặc điểm bao trùm, quan trọng có tác động ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình xây dựng phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc thời kỳ này.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III (9/1960), Đảng ta đã vạch ra đường lối chung cho cách mạng Việt Nam là cùng lúc thực hiện hai chiến lược cách mạng ở hai miền, đó là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Đại hội đã xác định rõ vị trí, vai trò của mỗi miền trong sự nghiệp cách mạng chung. Trong đó, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc có vai trò quyết định đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng nước ta. Miền Bắc được xác định là căn cứ địa của cả nước, còn miền Nam có vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Đại hội III chủ trương: đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Cũng tại Đại hội này, đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trong thời kỳ quá độ được vạch ra. Theo đó, miền Bắc có các nhiệm vụ cụ thể là hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa, củng cố quan hệ sản xuất mới, chuyển trọng tâm vào việc xây dựng bước đầu cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội bằng việc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất 1961-1965.

Như vậy, trong thời kỳ 1955-1975, về phương diện kinh tế miền Bắc nước ta có hai nhiệm vụ cơ bản, đó là tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa xây dựng nền kinh tế ở giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, trong khoảng 10 năm cuối (1965-1975), do tác động của chiến tranh, miền Bắc có chủ trương chuyển hướng xây dựng, phát triển kinh tế cho phù hợp với tình hình mới.

5.1.2. Đặc điểm tình hình kinh tế

5.1.2.1. Khôi phục và cải tạo kinh tế (1955-1960)

Sau khi hoà bình lập lại, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ nhân dân miền Bắc đã triển khai thực hiện nhiều nhiệm vụ; trong đó nổi bật là

hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, hoàn thành cải cách ruộng đất, cải tạo xã hội chủ nghĩa và bước đầu phát triển kinh tế, văn hoá.

a. Cải cách ruộng đất và khôi phục kinh tế (1955-1957)

Trong ba năm 1955-1957, miền Bắc tập trung hoàn thành cải cách ruộng đất và khôi phục lại nền kinh tế sau chiến tranh.

Hoàn thành cải cách ruộng đất

Cải cách ruộng đất là một trong những nhiệm vụ quan trọng, có ý nghĩa chiến lược đối với cách mạng Việt Nam. Vì thế, cuối cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, vùng tự do đã triển khai cải cách ruộng đất ở 270 xã. Việc làm này có ý nghĩa quan trọng, nó tạo nên sức mạnh to lớn, góp phần đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi. Sau kháng chiến, trong ba năm 1955-1956, Đảng và Chính phủ quyết định thực hiện cải cách ruộng

đất trên phạm vi rộng lớn ở miền Bắc1. Tại kỳ họp thứ 4 (tháng 3/1955),

Quốc hội thông qua Nghị quyết tán thành một số điểm bổ sung của Chính phủ về cải cách ruộng đất2. Chính phủ đã lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và thành lập các tổ, đội cải cách ruộng đất. Lực lượng này được phân về các thôn, làng, xã ở nông thôn. Họ tổ chức quần chúng thực hiện đấu tố, tịch thu tài sản của địa chủ đem chia cho nông dân.

Qua 5 đợt3, cải cách ruộng đất đã được thực hiện ở 3.653 xã thuộc 22 tỉnh (bao trùm cả vùng đồng bằng và trung du) với 2.435.518 gia đình, 10.700.000 nhân khẩu. Lực lượng cải cách đã tịch thu, trưng thu và trưng mua 810.000 hecta ruộng đất, trên 100.000 trâu bò, 1,8 triệu nông cụ và nhiều nhà cửa, tài sản của địa chủ. Số tài sản này được đem chia


1 Các tỉnh miền núi do đặc điểm cụ thể không triển khai cải cách ruộng đất mà chỉ chủ yếu thực hiện các cuộc vận động lớn như giảm tô, giảm tức, chia công điền, tạm cấp ruộng đất của bọn việt gian phản động, ruộng vắng chủ cho nông dân.

2 Những điểm bổ sung đó là: Dùng hình thức tòa án thay cho những cuộc đấu tranh của nông dân; thu hẹp diện trưng thu, mở rộng diện trưng mua, quy định việc hiến ruộng; chiếu cố những địa chủ kháng chiến và gia đình địa chủ có con em là bộ đội, cán bộ, viên chức cách mạng, chiếu cố các nhà công thương kiêm địa chủ và những người tu hành [Lê Mậu Hãn & cộng sự, 2013, 181].

3 Tính cả 2 đợt làm trong kháng chiến với 3 đợt thời này, tổng là 5 đợt. Trong đó, đợt 3 từ tháng 2 đến tháng 6 năm 1955; đợt 4 từ tháng 6-12/1955 và đợt 5 từ tháng 12/1955 đến tháng 7/1956.

cho 2,2 triệu hộ nông dân lao động với 9,5 triệu người (tức 72,8% số hộ ở nông thôn được chia ruộng đất) [Lê Mậu Hãn & cộng sự, 2013, 181]. Sau cải cách ruộng đất, tình hình phân bố ruộng đất ở miền Bắc có biến đổi quan trọng, sở hữu ruộng đất của địa chủ, phú nông giảm, còn của bộ phận bần cố nông, trung nông thì tăng lên (bảng 5.1).

Bảng 5.1. Bình quân ruộng đất ở miền Bắc trước và sau cải cách ruộng đất

(Đơn vị: m2/người)



Trước tháng 8/1945

Sau cải cách ruộng đất

Địa chủ

10.980

730

Phú nông

4.200

1.720

Trung nông

1.450

1.710

Bần nông

472

1.390

Cố nông

112

1.370

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 205 trang tài liệu này.

Lịch sử kinh tế Việt Nam Phần 2 - 6

Nguồn: Tổng cục Thống kê [Dẫn theo Lê Mậu Hãn & cộng sự, 2013, 182]


Có thể nói, cải cách ruộng đất là "một cuộc cách mạng nông thôn, long trời chuyển đất. Không những nó quan hệ trực tiếp tới giai cấp nông dân và giai cấp địa chủ mà còn ảnh hưởng lớn đến nhiều tầng lớp khác" [Hồ Chí Minh, 2011, T.10, 298]. Cải cách ruộng đất có một ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn, bởi nó đã tạo nên diện mạo mới trong kết cấu xã hội nông thôn miền Bắc nước ta. Kết quả của cải cách ruộng đất đã đổi đời cho hàng triệu nông dân nghèo, đưa họ từ thân phận làm thuê thành người có đủ ruộng đất canh tác. Ngược lại, một bộ phận dân cư khác, khoảng 5% dân số, tầng lớp có vị trí cao trong xã hội và chiếm hữu phần lớn ruộng đất đã trở thành người lao động. Cũng từ đây, miền Bắc đã xoá bỏ quan hệ sản xuất phong kiến, chế độ người bóc lột người, giải phóng sức lao động ở nông thôn, tạo sức mạnh để khôi phục kinh tế sau kháng chiến.

Tuy vậy, trong quá trình thực hiện cải cách ruộng đất, miền Bắc đã mắc những sai lầm nghiêm trọng. Đó là đã vi phạm đường lối giai cấp

Xem tất cả 205 trang.

Ngày đăng: 16/09/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí