Lịch sử kinh tế Việt Nam Phần 2 - 10

lực lượng sản xuất với củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất. Cần chú trọng cải tiến và tăng cường tổ chức, quản lý đối với công nghiệp quốc doanh, công tư hợp doanh và hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, nhằm tăng hiệu quả, năng suất, chất lượng, hạ giá thành đồng thời tăng tích lũy cho công nghiệp hóa; sản xuất hàng tiêu dùng phục vụ nhu cầu nhân dân; cung cấp vật tư, nông cụ, chế biến sản phẩm nông nghiệp sau thu hoạch.

Hội nghị Trung ương đã xác định thực chất của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là làm cách mạng kỹ thuật, phát triển công nghiệp nặng để từng bước cải tạo kỹ thuật và trang bị cho các ngành kinh tế quốc dân kỹ thuật mới, trong quá trình đó "phải đặc biệt coi trọng công nghiệp phục vụ nông nghiệp".

- Diễn biến và kết quả công nghiệp hóa

Để tăng cường ngân sách đáp ứng yêu cầu về vốn trong thực hiện kế hoạch 5 năm nói chung, công nghiệp hóa nói riêng, Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng củng cố, phát triển hệ thống ngân hàng và hệ thống tài chính quốc gia. Ngày 26 tháng 10 năm 1961, Chính phủ có Nghị định 171/CP quy định rõ về chức năng nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Sau đó ngày 1 tháng 4 năm 1963, Chính phủ cho thành lập Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam với chức năng nhiệm vụ kinh doanh ngoại hối, thanh toán quốc tế, cho vay ngoại thương, tham gia quản lý ngoại hối, góp phần bảo vệ tiền tệ và tài sản Nhà nước, tăng cường và mở rộng quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa với nước ngoài.

Đến năm 1964, hệ thống ngân hàng được chia thành: Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Kiến thiết và Ngân hàng Ngoại thương. Tín dụng có vai trò quan trọng trong thời kỳ này; nó huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi để phục vụ kế hoạch 5 năm. Từ năm 1961, Ngân hàng hình thành được nguồn vốn pháp định. Nguồn vốn tự có của ngân hàng tính đến cuối năm 1964 là 73 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 6,2% tổng nguồn vốn. Tín dụng ngân hàng tham gia khoảng 50% tổng vốn lưu động và trở thành bộ phận không thể thiếu trong hoạt động của nền kinh tế quốc dân. Cơ cấu tín dụng ngân hàng đối với các khu vực kinh tế cụ thể là: 35% đối với công nghiệp nhẹ, 45% đối với công nghiệp nặng; 50% vốn của xí nghiệp cung ứng vật tư, còn thương nghiệp là 70%.

So với giai đoạn khôi phục kinh tế, tổng số vốn đầu tư của Nhà nước tăng hơn 5,1 lần. Trong đó, đầu tư cho công nghiệp tập trung vào các cơ sở Trung ương và địa phương. Trong 10 năm (1955-1965), vốn đầu tư cho kinh tế Trung ương rất cao, thường chiếm khoảng 3/4 tổng ngân sách đầu tư. Trong thời kỳ này, đầu tư của Nhà nước vào ngành công nghiệp lớn gấp 4 lần đầu tư vào nông nghiệp. Nhà nước đã dành 48% tổng số vốn đầu tư xây dựng cơ bản cho khu vực sản xuất công nghiệp. Mỗi năm Nhà nước đầu tư vào công nghiệp 343 triệu đồng, gấp 3 lần so với mức bình quân hàng năm giai đoạn 1955-1960; trong đó 78% được dành cho công nghiệp nặng, 22% cho công nghiệp nhẹ. Trong công nhiệp, luyện kim là ngành công nghiệp được đầu tư lớn, chiếm tới 30% tổng vốn đầu tư cho công nghiệp nặng; còn hóa chất phân bón là 17%; 16% cho ngành than; 60% cho ngành cơ khí và 5% cho vật liệu xây dựng và ngành giao thông vận tải, bưu điện được đầu tư 654,4 triệu đồng, bằng 19,1% tổng vốn đầu tư khu vực sản xuất vật chất.

Do được Nhà nước quan tâm đầu tư, công nghiệp đã có tốc độ tăng trưởng khá cao, nhiều khu công nghiệp ra đời và bắt đầu đi vào sản xuất. Đó là khu công nghiệp Thượng Đình (Hà Nội), khu gang thép Thái Nguyên, các nhà máy - điện Uông Bí, hóa chất Việt Trì, phân đạm Hà Bắc, supe phốt phát Lâm Thao. Còn về công nghiệp nhẹ, các nhà máy đường Vạn Điểm, pin Văn Điển, sứ Hải Dương, Dệt 8-3 được xây dựng. Công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp phát triển đã giải quyết gần 80% hàng tiêu dùng cho nhân dân. Sản xuất của công nghiệp quốc doanh có những thành tựu đáng ghi nhận. Sản xuất điện tăng từ 256,1 triệu kwh lên 633,6 triệu kwh; than từ 2,6 lên 4,2 triệu tấn; gang từ 7,7 lên 127,8 nghìn tấn; xi măng từ 408 nghìn lên 680 nghìn tấn; máy cắt gọt kim loại từ 799 lên 1.866 chiếc; động cơ điện từ 488 lên 5.712 chiếc; máy bơm nước từ 71 chiếc lên 2.112 chiếc. Đặc biệt ngành cơ khí chế tạo các loại máy tiện, máy mài, máy biến thế, máy phát điện diesel, máy phát điện xoay chiều thời kỳ này được xem như hiện đại nhất khu vực Đông Nam Á [Nguyễn Trí Dĩnh & cộng sự, 2013].

Trong nông nghiệp, nhiều công trình thủy lợi, trạm bơm, hồ chứa nước được xây dựng, trong đó có 64 công trình thủy lợi lớn được hoàn thành; cơ giới hóa nông nghiệp bước đầu được thực hiện. Tỷ lệ cơ khí

hóa trong sản xuất nông nghiệp năm 1965 tăng 3,3 lần so với năm 1960 [Đinh Quang Hải, 2017]. Để xóa bỏ lao động thủ công lạc hậu trong nông nghiệp, Nhà nước chú trọng trang bị máy kéo, máy công nghiệp và tiến hành cải tiến công cụ phục vụ phương tiện vận tải cho các hợp tác xã. Đến năm 1964, số trạm máy kéo tăng gấp 3,3 lần, số máy kéo phục vụ các hợp tác xã nông nghiệp tăng 7,2 lần, diện tích gieo trồng được cày bằng máy tăng gấp 14,5 lần, máy bơm nước tăng 9,7 lần so với năm 1960 [Trần Bá Đệ và Lê Cung, 2012]. Đặc biệt, trong các nông trường quốc doanh, diện tích được cày bằng máy đạt tới 90%. Những thay đổi về cơ sở vật chất - kỹ thuật trên đây đã giúp năng suất lúa tăng lên đáng kể. Đến cuối năm 1965, có 7 huyện và hơn 600 hợp tác xã đạt và vượt 5 tấn thóc/ha. Sự mất cân đối giữa trồng trọt và chăn nuôi cũng từng bước được khắc phục: năm 1955 chăn nuôi đạt 15,3% tổng giá trị sản lượng nông nghiệp, năm 1965 đã tăng lên 22,9%.

Về thương mại thời kỳ này cũng rất phát triển, ngành nội thương tiếp tục mở rộng mạng lưới mậu dịch quốc doanh, đưa cửa hàng, hợp tác xã mua bán về tận xã. Đây là chuyển biến mới về sự phân công và phối hợp giữa mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán. Sự phối kết hợp này giúp ngành nội thương tăng cường khả năng thu mua, nắm được nguồn hàng phục vụ cho công nghiệp chế biến trong nước và xuất khẩu. Hoạt động ngoại thương có tiến bộ. Xuất khẩu năm 1964 so với năm 1960 đã tăng 135,7%, còn nhập khẩu tăng 116,4%. Miền Bắc thời kỳ này đã có quan hệ buôn bán với 44 quốc gia trên thế giới. Nhưng quan hệ ngoại thương chủ yếu diễn ra với các nước xã hội chủ nghĩa; nhập khẩu từ các nước này chiếm khoảng 90% tổng giá trị kim ngạch nhập khẩu [Nguyễn Trí Dĩnh & cộng sự, 2013]. Sự phát triển của ngoại thương góp phần cung cấp thiết bị cho công nghiệp, kích thích sản xuất, đặc biệt là thủ công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 205 trang tài liệu này.

Mạng lưới giao thông vận tải từ trung ương đến địa phương, từ miền xuôi lên miền ngược tiếp tục được tăng lên. Hệ thống đường sắt được làm thêm những quãng quan trọng khác như: Thái Nguyên - Bắc Giang - Uông Bí - Hải Dương. Đường bộ liên tỉnh, liên huyện, nhất là ở miền núi được xây dựng thêm với phương châm tăng cầu, giảm phà. Về đường hàng không cũng được phát triển, mở rộng cả nội địa và ra nước ngoài.

Công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với vận tải tiếp tục được thực hiện. Quốc doanh chiếm tỷ trọng 83,3% trong khối lượng hàng hóa luân chuyển, tuy nhiên so với trước tăng không nhiều (năm 1960 là 80,5%). Năm 1964, khối lượng vận tải hàng hóa nói chung tăng 48,4%, vận chuyển hành khách tăng 49% so với năm 1960.

Lịch sử kinh tế Việt Nam Phần 2 - 10

Về bưu điện, cơ sở vật chất - kỹ thuật có tiến bộ. Năm 1965 so với năm 1960, chiều dài đường dây điện thoại tăng 2,2 lần, tổng số là 36,6 nghìn km. Số tổng đài điện thoại là 1217 cái, gấp 1,5 lần trước. Số máy điện thoại lên tới 16,9 nghìn cái, gấp 1,8 lần trước. Số máy điện báo là 230 chiếc, gấp 2 lần trước. Ngành bưu điện đã chuyển bưu phẩm nhiều gấp 2,8 lần, số bưu kiện gấp 6,2 lần, điện báo gấp 1,5 lần, điện thoại đường dài tăng 1,4 lần. Tuy vậy, chất lượng cơ sở vật chất - kỹ thuật của ngành bưu điện vẫn còn thấp; trang thiết bị không đồng bộ. Vốn đầu tư chưa đủ để đáp ứng nhu cầu đổi mới một cách cơ bản hệ thống kỹ thuật cũ, mà chủ yếu dùng để mở rộng nó theo kiểu chắp vá.

Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất nói chung, bước đầu thực hiện công nghiệp hoá nói riêng đã không thực hiện được trọn vẹn. Vì từ ngày 5 tháng 8 năm 1964, đế quốc Mỹ cho máy bay ném bom đánh phá một số nơi ở miền Bắc. Sau đó ngày 7 tháng 2 năm 1965, Mỹ chính thức tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất. Miền Bắc buộc phải chuyển hướng xây dựng, phát triển.

Nhìn chung, trong thực hiện công nghiệp hóa, miền Bắc đã tăng cường được một một bước cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nền kinh tế. Khu vực công nghiệp và xây dựng cơ bản có mức tăng đáng kể. Cơ cấu kinh tế được chuyển dịch theo hướng: tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng từ 22,9% (1960) lên 28,7% (1965); còn nông nghiệp thì giảm từ 42,3% xuống 41,7%. Tính chung giá trị tổng sản lượng công nông nghiệp tăng từ 47% lên 55%; trong đó công nghiệp thuộc nhóm A đã tăng từ 33,7% lên 42%; còn nhóm B giảm từ 66,3% xuống 58% [Nguyễn Trí Dĩnh & cộng sự, 2013]. Trong thời kỳ thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ I, miền Bắc bộc lộ một số hạn chế, sai lầm, khuyết điểm do tư tưởng chủ quan nóng vội, giáo điều. Các khuyết điểm, sai lầm này thể hiện ở việc đề ra một số chỉ tiêu quá cao, không tính đến điều kiện và khả năng thực hiện;

thể hiện ở chủ trương và cách thức thực hiện công nghiệp hoá. Công nghiệp hoá thời kỳ này được triển khai theo mô hình công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu, trong khi vốn đầu tư, khoa học kĩ thuật, nhân lực lại chưa có khả năng đáp ứng nhu cầu.

Củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa

Củng cố quan hệ sản xuất được triển khai đối với các khu vực kinh tế và với cả cơ chế quản lý nền kinh tế. Tình hình cụ thể như sau:

- Củng cố quan hệ sản xuất đối với các khu vực kinh tế

+ Đối với kinh tế nông nghiệp: Đại hội III và Hội nghị Trung ương 3 (7/1961) của Đảng đã chủ trương hoàn thành cải tạo quan hệ sản xuất trong nông nghiệp; tiếp tục đưa nông dân cá thể vào hợp tác xã, chuyển các hợp tác xã từ bậc thấp lên bậc cao; từng bước tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật kết hợp với cải tiến quản lý hợp tác xã; củng cố và phát triển các hợp tác xã nông nghiệp và nông trường quốc doanh để phát triển nông nghiệp một cách vững chắc. Trong các hợp tác xã bậc cao, ruộng đất và các tư liệu sản xuất (trâu, bò, nông cụ chủ yếu) đều được tập thể hóa. Xã viên không còn được hưởng hoa lợi từ ruộng đất như trước nữa; trong các hợp tác xã thực hiện phân phối theo lao động.

Kết quả củng cố quan hệ sản xuất trong giai đoạn này là: số hộ nông dân vào hợp tác xã tính đến tháng 8 năm 1964 là 2.591.300 hộ (cuối năm 1960 con số này là 2.400.000 hộ). Năm 1964, số hộ xã viên trong các hợp tác xã bậc cao (mặc dù ít hơn về số lượng hợp tác xã) nhiều hơn số hộ trong các hợp tác xã bậc thấp. Cụ thể, bậc cao là 1.393.600 hộ; còn bậc thấp là 1.197.000 hộ). Số hộ nông dân cá thể tính vào thời điểm năm 1964 vẫn còn khoảng 14% (với 816.200 lao động và khoảng 2.118.000 nhân khẩu) [Lê Mậu Hãn & cộng sự, 2013].

Một điểm quan trọng cần lưu ý trong thời kỳ này là việc đưa dân miền xuôi đi xây dựng kinh tế ở vùng miền núi. Trong giai đoạn 1957-1960, phong trào di dân khai hoang đã được triển khai thí điểm. Từ 1963-1964 trở đi, khai hoang chuyển sang di dân định cư lập quê hương mới. Trong 4 năm đầu thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đã có khoảng 500.000 nông dân di cư lên vùng kinh tế mới. Nếu tính cả số

người làm việc trong các công, nông trường, xí nghiệp ở vùng cao, thì tổng cộng là 600.000 người. Theo Nguyễn Trí Dĩnh và cộng sự [2013, 577] thì "đến tháng 9 năm 1964 đã có 85 vạn người từ miền xuôi đi xây dựng kinh tế miền núi". Việc di dân có tổ chức là một chủ trương đúng đắn, trên thực tế có ý nghĩa quan trọng về mặt kinh tế và xã hội ở vùng nông thôn.

Tuy củng cố quan hệ sản xuất giai đoạn này đạt kết quả đáng ghi nhận; nhưng có một số hạn chế, thiếu sót. Đó là, việc nhanh chóng chuyển nhiều hợp tác xã lên quy mô lớn, bậc cao. Do trình độ, năng lực của cán bộ và người dân còn hạn chế nên quá trình xây dựng, củng cố quan hệ sản xuất mới trong các hợp tác xã gặp nhiều khó khăn, lúng túng, bất cập. Nhiều nơi xẩy ra tham ô, lãng phí, vi phạm chủ trương, nguyên tắc hợp tác hoá. Để khắc phục tình trạng này, Chính phủ đã phát động phong trào cải tiến quản lý hợp tác xã, trong đó chú trọng quản lý trên ba mặt: sản xuất, lao động, tài chính; thực hiện nguyên tắc quản lý dân chủ, bảo đảm nguyên tắc phân phối theo lao động... Đến cuối năm 1964 có trên 25.000 trong tổng số 31.800 hợp tác xã ở đồng bằng và trung du đã hoàn thành vòng 1 của cuộc vận động; trong đó, có 36% số hợp tác xã được đánh giá quản lý tốt.

+ Đối với kinh tế quốc doanh và tập thể: Nhà nước đã triển khai cuộc vận động "ba xây, ba chống" với nội dung: nâng cao ý thức trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế, tài chính, cải tiến kĩ thuật, chống tham ô, lãng phí, quan liêu. Mục đích của cuộc vận động này nhằm đẩy mạnh sản xuất, nâng cao vai trò của các xí nghiệp quốc doanh, tích cực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, cải thiện đời sống nhân dân và thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm lần thứ I. Để tăng cường sự quản lý tập trung của Nhà nước, Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (khoá III), tháng 4 năm 1964 đã chỉ rõ: Các cấp của Đảng và chính quyền từ trung ương đến cơ sở cần phải nắm vững hơn nữa công tác lãnh đạo và quản lý kinh tế tài chính, tăng cường công tác kế hoạch hóa, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý. Thực hiện chủ trương trên, một số yếu kém trong quản lý kinh tế quốc doanh bước đầu được khắc phục; kinh tế quốc doanh được củng cố và tiếp tục phát triển, góp phần thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa.

Nhìn chung, kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể tiếp tục có sự mở rộng về quy mô và gia tăng về số lượng. Mặc dù Đảng và Nhà nước đã chú trọng thúc đẩy cơ chế quản lý, nhưng trình độ tổ chức quản lý kinh tế thời gian này vẫn còn nhiều yếu kém, hạn chế nên chưa khai thác và sử dụng có hiệu quả được nguồn vốn đầu tư, thế mạnh về tài nguyên và sức lao động. Bên cạnh đó, sự lỏng lẻo trong công tác quản lý kinh tế đã dẫn đến tình trạng tham ô, lãng phí, quan liêu.

- Về cơ chế quản lý kinh tế1

Từ đầu những năm 1960, nền kinh tế miền Bắc bắt đầu vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung. Cơ chế kinh tế thời gian này thể hiện những đặc trưng cơ bản của mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa trước đây. Đó là:

+ Nhà nước chỉ huy các hoạt động kinh tế thông qua bộ máy và công cụ kế hoạch hoá. Kế hoạch Nhà nước giao được coi là chỉ tiêu pháp lệnh. Mọi sự thay đổi trong kế hoạch và trong tổ chức thực hiện đều phải báo cáo lên cơ quan chủ quản, khi nào được chấp nhận mới được triển khai.

+ Nhà nước tập trung nguồn thu tài chính vào ngân sách chính phủ, rồi từ đó lại chi cho các hoạt động kinh tế - xã hội theo chế độ bao cấp. Chế độ tài chính của các xí nghiệp quốc doanh thực hiện theo nguyên tắc thu đủ chi đủ, tức lãi thì Nhà nước thu, lỗ thì Nhà nước bù. Các chỉ tiêu kế hoạch về tài chính, lao động và về tiền lương của xí nghiệp quốc doanh được giao căn cứ vào chỉ tiêu kế hoạch sản xuất sản phẩm. Toàn bộ sản phẩm đầu ra của xí nghiệp quốc doanh đều phải giao nộp cho Nhà nước. Tiền lương của cán bộ quản lý, công nhân trong các xí nghiệp quốc doanh do Nhà nước quy định theo ngạch, bậc thống nhất. Sản phẩm của các hợp tác xã cũng được tập trung vào Nhà nước.



1 Cơ chế quản lý kinh tế là hệ thống các biện pháp, hình thức, cách thức tổ chức, điều kiện duy trì các mối quan hệ kinh tế phát triển phù hợp với những quy luật kinh tế khách quan theo mục tiêu đã xác định trong những điều kiện kinh tế - xã hội của từng giai đoạn phát triển của xã hội [Ngô Doãn Vịnh, 2013, 316]. Do điều kiện đặc thù của Việt Nam, trong những năm 1955-1965, miền Bắc áp dụng cơ chế kế hoạch hoá tập trung để quản lý, vận hành nền kinh tế. Sang giai đoạn 1965-1975, trong bối cảnh Miền Bắc có chiến tranh phá hoại, cơ chế kế hoạch hoá tập trung gia tăng, chuyển dịch dần thành cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp [Nguyễn Ngọc Thanh & cộng sự, 2013, 434].

+ Trong mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung, các quan hệ hàng hoá - tiền tệ dần bị thu hẹp, nền kinh tế mang nặng tính hiện vật. Giá cả cũng do Nhà nước quy định và được sử dụng để tính toán cho việc cấp phát và giao nộp giữa Nhà nước và các đơn vị kinh tế. Sản phẩm do các đơn vị sản xuất vật chất tạo ra được tập trung vào tay Nhà nước. Để rồi từ đó, sản phẩm lại được Nhà nước phân phối theo kế hoạch, nếu là tư liệu sản xuất sẽ do hệ thống cung ứng vật tư phụ trách; còn nếu là tư liệu tiêu dùng sẽ do hệ thống thương mại của Nhà nước thực hiện [Nguyễn Trí Dĩnh & cộng sự, 2013, 579].

Việc miền Bắc áp dụng cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập trung trong nửa đầu thập niên 1960 là phù hợp với bối cảnh, điều kiện lịch sử đất nước bấy giờ. Mặc dù cơ chế này có mặt hạn chế; nhưng trong hoàn cảnh miền Bắc vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa phải làm nhiệm vụ hậu phương cho cách mạng ở miền Nam thì cơ chế này tỏ ra phù hợp. Mặt tích cực của nó được phát huy tối đa, đã giúp miền Bắc đạt được mục tiêu chính trị của mình.

5.1.2.3. Kinh tế trong giai đoạn 1965-1975

Do thất bại trong thực hiện "Chiến lược chiến tranh đặc biệt", từ đầu năm 1965, đế quốc Mỹ đã chuyển sang "Chiến lược chiến tranh cục bộ" nhằm cứu vãn chế độ "Việt Nam Cộng hoà" và bảo tồn chủ nghĩa thực dân mới, căn cứ quân sự ở miền Nam Việt Nam. Thực hiện chiến lược này, một mặt Mỹ tăng cường viện trợ quân sự, kinh tế cho chính quyền Sài Gòn, đồng thời đưa quân đội Mỹ và quân đội đồng minh của Mỹ vào miền Nam, mặt khác tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc ác liệt hơn so với cuối năm 1964. Nhưng cuối cùng "Chiến lược chiến tranh cục bộ" cũng phá sản, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris, rút quân về nước và chuyển sang chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" (1973-1975).

Trong bối cảnh như vậy, Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ Tịch đã có những chủ trương, quyết sách đúng đắn, kịp thời để lãnh đạo đất nước. Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ XI (3/1965) và lần thứ XII (6/1965) cho thấy rõ điều đó. Theo định hướng chiến lược của Đảng, miền Bắc tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội, là hậu phương lớn cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà. Nhưng trong tình hình mới, miền Bắc

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 16/09/2023