của Đảng ở nông thôn (xâm phạm lợi ích của trung nông, không liên hiệp với phú nông, không phân biệt đối xử với các loại địa chủ, không chiếu cố địa chủ kháng chiến); xác định tỷ lệ địa chủ máy móc, không sát thực tế (5% địa chủ); cường điệu việc trấn áp phản cách mạng; thiên về đấu tố, coi nhẹ giáo dục... Trong các sai lầm thì sai lầm nghiêm trọng nhất là trong việc chỉnh đốn tổ chức. Nguyên nhân sâu xa của những sai lầm trên là do lực lượng thực hiện cải cách đã không nắm vững vấn đề dân tộc và giai cấp ở nước ta, không thấy được những biến đổi to lớn của xã hội nông thôn miền Bắc sau Cách mạng tháng Tám 1945, nhất là ở vùng tự do sau 9 năm kháng chiến, lại áp dụng kinh nghiệm nước ngoài một cách máy móc, không dựa vào cơ sở Đảng địa phương, xa rời thực tiễn Việt Nam.
Tháng 4 năm 1956, Đảng ta phát hiện sai lầm và đã có chỉ thị sửa sai lầm. Hội nghị Trung ương lần thứ 10 của Đảng nêu chủ trương kiên quyết sửa sai. Hội nghị này đã đề ra một loạt chủ trương, biện pháp để sửa sai, khôi phục danh dự, quyền lợi cho những người bị quy oan và thi hành kỷ luật một số cán bộ liên đới trách nhiệm trong cải cách ruộng đất. Phương châm chỉ đạo công tác sửa sai là khẩn trương, từng bước, có trọng điểm. Với thái độ nghiêm túc, chân thành nhận khuyết điểm và có chủ trương đúng đắn, kịp thời lại được đông đảo quần chúng nhân dân đồng tình, ủng hộ, đến cuối năm 1957, công tác sửa sai đã hoàn thành, với kết quả tốt đẹp. Nông thôn dần ổn định, lòng tin của nhân dân được khôi phục, sản xuất nông nghiệp được đẩy mạnh.
• Khôi phục kinh tế
- Chủ trương khôi phục kinh tế của Đảng và Nhà nước
Miền Bắc trải qua 15 năm chiến tranh, nền kinh tế bị tàn phá nặng nề, đời sống của nhân dân còn nhiều khó khăn. Do vậy cần khôi phục mức sản xuất ngang mức trước chiến tranh (1939); khôi phục hệ thống giao thông vận tải, khôi phục tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp; phục hồi thương nghiệp để lưu thông hàng hóa, ổn định tiền tệ và tài chính, cân bằng thu chi, bình ổn giá cả. Duy trì và tôn trọng những hình thức kinh tế nhiều thành phần, chú trọng kinh tế quốc doanh, quan tâm phát triển các thành phần kinh tế khác.
Để thực hiện các mục tiêu đã đề ra và "thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với chế độ dân chủ nhân dân", Đảng và Nhà nước đã nêu phương châm khôi phục nền kinh tế miền Bắc. Nội dung gồm 5 điểm1:
1) Chủ yếu khôi phục nông nghiệp, chú trọng công tác cải cách ruộng đất, coi trọng giao thông vận tải, chăm lo khôi phục, xây dựng một số công trình cần thiết, chú trọng gây dựng cơ sở cho công nghiệp hóa.
2) Khôi phục kinh tế phải theo đường lối chung là phát triển sản xuất làm cho kinh tế dồi dào, công tư đều được chiếu cố, lao động và tư bản đều có lợi, thành thị và thôn quê giúp đỡ lẫn nhau, mở rộng trao đổi giữa trong và ngoài nước.
3) Khôi phục phải đi đôi với cải tạo nền kinh tế cũ còn nặng tính chất phong kiến, thực dân và di tích chiến tranh thành nền kinh tế độc lập, dân chủ, phục vụ dân sinh.
4) Tăng cường một cách vững chắc bộ phận kinh tế quốc doanh và chăm lo xây dựng dần dần bộ phận kinh tế hợp tác xã, phát huy đến cao độ tính tích cực của quảng đại quần chúng lao động ở thành thị và thôn quê; hướng dẫn, khuyến khích và giúp đỡ công việc làm ăn, buôn bán của các tầng lớp tiểu tư sản và công cuộc kinh doanh của tư sản dân tộc.
5) Trong khôi phục kinh tế phải thực hiện sự phát triển cân đối giữa các ngành: nông nghiệp, giao thông vận tải, công nghiệp, xây dựng lại các thành phố bị tàn phá, thương mại.
- Kết quả khôi phục kinh tế
+ Về nông nghiệp
Nông nghiệp có vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân; nó cung cấp lương thực, nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm của công nghiệp, đồng thời góp phần nâng cao và ổn định đời sống nhân dân, củng cố khối liên minh công nông. Do vậy, Đảng và Nhà nước chủ trương lấy khôi phục nông nghiệp làm chủ yếu, trên cơ sở đó khôi phục toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
1 Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử chính phủ Việt Nam (2004), Lịch sử chính phủ Việt Nam 1955-1976, Hà Nội, 2004, tr.12 [Dẫn theo Trần Bá Đệ, Lê Cung, 2012, 29-30].
Để phục hồi và phát triển nông nghiệp, công tác thủy lợi được chú trọng. Nhà nước đã đầu tư trên 37 tỷ đồng, chiếm 81,3% tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản dành cho nông nghiệp; trong đó, dành hơn 25 tỷ đồng cho việc khôi phục và xây dựng các công trình thủy lợi lớn và vừa. Nông dân đã góp hàng chục triệu ngày công để đào đắp các công trình thủy lợi, diện tích đất được chủ động tưới tiêu đã tăng thêm hàng trăm nghìn ha, diện tích canh tác bị bỏ hoang trong chiến tranh phần lớn được đưa vào sản xuất. Đảng và Nhà nước còn chú trọng công tác đào tạo nguồn nhân lực có trình độ phục vụ nông nghiệp. Năm 1956, trường Đại học Nông Lâm nghiệp được thành lập với 4 ngành đào tạo là trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp và cơ khí nông nghiệp. Các trường trung cấp nông nghiệp cũng được xây dựng. Nhà nước còn gửi một số học sinh và cán bộ đi đào tạo những ngành nghề liên quan đến nông nghiệp ở nước ngoài.
Sau 3 năm khôi phục, nông nghiệp có tiến bộ rõ rệt: Sản lượng lương thực tăng 57%, bình quân đầu người đạt 303 kg/năm. Đặc biệt năm 1956, sản lượng đạt tới hơn 4,7 triệu tấn, bình quân đạt 337,5 kg/người. Trong 2 năm 1956-1957, nước ta còn có lương thực để xuất khẩu (năm 1957, xuất 18 vạn tấn gạo, 4 vạn tấn ngô), đổi lấy máy móc, nguyên vật liệu cho sản xuất công nghiệp và hàng tiêu dùng. Chăn nuôi gia đình cũng phát triển, thực phẩm dồi dào, đời sống nông dân được cải thiện [Đặng Phong & cộng sự, 2005, tập 2, 271].
Bảng 5.2. Kết quả sản xuất nông nghiệp giai đoạn 1955-1957
Đơn vị | 1955 | 1956 | 1957 | Bình quân 1955-1957 | |
Diện tích trồng | 100 ha | 2515,0 | 2761,0 | 2597,0 | 2624,0 |
Sản lượng lương thực quy thóc | 1000 tấn | 3708,0 | 4937,0 | 4292,0 | 4263,0 |
Năng suất bình quân 1 vụ | Tạ/ha | 15,9 | 18,6 | 18,1 | 17,7 |
Lương thực bình quân | Kg/người | 277,9 | 337,5 | 295,5 | 303,0 |
Đàn trâu | 1000 con | 1051,0 | 1118,7 | 1237,0 | 1135,0 |
Đàn bò | " | 689,0 | 777,0 | 884,0 | 782,0 |
Đàn lợn | " | 2445,0 | 2729,0 | 2945,0 | 2706,0 |
Có thể bạn quan tâm!
- Tình Hình Sở Hữu Ruộng Đất Tính Đến Năm 1953
- Tình Hình Sản Xuất Công Nghiệp Vùng Tạm Chiếm Năm 1953
- Bình Quân Ruộng Đất Ở Miền Bắc Trước Và Sau Cải Cách Ruộng Đất
- Lịch sử kinh tế Việt Nam Phần 2 - 8
- Kế Hoạch 5 Năm Lần Thứ Nhất (1961-1965)
- Lịch sử kinh tế Việt Nam Phần 2 - 10
Xem toàn bộ 205 trang tài liệu này.
Nguồn: [Nguyễn Sinh Cúc, 1995, 17]
+ Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp
Cuối năm 1954, công nghiệp miền Bắc còn nhỏ bé, giá trị sản lượng công nghiệp chiếm 1,5% tổng sản lượng công nông nghiệp. Trong vùng tự do cũ, hầu hết các nhà máy lớn và quan trọng đều bị phá hủy hoặc tê liệt hoạt động. Trong vùng mới tiếp quản, nhiều nhà máy, hầm mỏ bị đình đốn hoặc sản xuất cầm chừng do không có phụ tùng thay thế hoặc thiếu nguyên liệu. Trong khi đó tư bản ngoại kiều và đa số tư sản dân tộc đều di cư vào miền Nam. Cơ sở công nghiệp Pháp để lại ở miền Bắc hầu như không có gì. Từ thực tế này, Đảng và Nhà nước đã chủ trương khôi phục và phát triển công nghiệp nhẹ trước, công nghiệp nặng sau; công nghiệp nhẹ là chính đồng thời củng cố và phát triển công nghiệp nặng trong phạm vi cần thiết và trong khả năng có thể.
Trong khu vực quốc doanh, Nhà nước tăng cường đầu tư vốn khôi phục, mở rộng các xí nghiệp quốc doanh hiện có đồng thời xây dựng thêm các xí nghiệp mới. Năm 1955 vốn đầu tư cho công nghiệp bằng 40% vốn đầu tư cho nông nghiệp và chỉ bằng 1/10 vốn đầu tư cho vận tải, bưu điện. Những năm sau đó, vốn đầu tư của Nhà nước đã tăng từ 7,4% (1955) lên 36% (1956) và 50,7% (1957). Bình quân cả thời kì, vốn đầu tư Nhà nước cho công nghiệp là 194,3 triệu đồng, chiếm 34,7% tổng vốn đầu tư vào khu vực sản xuất vật chất; trong đó nhóm A - 68,7% và nhóm B - 31,3% [Đặng Phong & cộng sự, tập 2, 271].
Nhờ tăng vốn đầu tư, chỉ trong một thời gian ngắn miền Bắc đã khôi phục về căn bản các nhà máy, xí nghiệp quan trọng. Về xây dựng mới, tính tới đầu năm 1957 đã có 7 xí nghiệp xây dựng hoàn thành. Đặc biệt, Nhà máy cơ khí Hà Nội (vào loại hiện đại) do Liên Xô giúp xây dựng xong cuối năm 1957. Cơ sở này có thể gia công chi tiết sản phẩm chính xác tới 1/1000 li cho các máy tiện, máy phay, máy bào, máy khoan. Tính chung, tổng giá trị sản lượng công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp năm 1957 bằng 269% so với năm 1955, trong đó công nghiệp bằng 397%, tiểu thủ công nghiệp bằng 221%. Đặc biệt một số ngành có sản lượng tăng rất nhanh: điện năm 1955 là 53 triệu kwh, 127 triệu kwh (1957). Xi măng tăng từ 8 nghìn tấn lên 165 nghìn tấn; vải 11 triệu mét
lên 60 triệu mét. Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp tư nhân, cá thể là lực lượng kinh tế quan trọng, chiếm tỷ trọng tuyệt đối trong tổng sản lượng công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp miền Bắc vào năm 1955 (89%). Các cơ sở này chủ yếu hoạt động trong các ngành dệt, da, cao su, in ấn, đồ gia dụng, tạp phẩm, rèn đúc, cơ khí sửa chữa và đột dập, gò hàn, bánh mứt kẹo, đông dược. Có thể nói, việc khôi phục và sử dụng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tư nhân, cá thể theo tinh thần Hội nghị Trung ương 11 (tháng 12 năm 1956) là một định hướng đúng.
+ Về thương nghiệp, tài chính, tiền tệ
Thời kỳ này, thương nghiệp quốc doanh có nhiều nhiệm vụ quan trọng: thống nhất thị trường, bình ổn vật giá, phát triển hệ thống mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán, nắm độc quyền ngoại thương.
Sau hoà bình lập lại, ở miền Bắc tồn tại hai loại giá hàng hoá, dịch vụ. Để bình ổn về giá, Chính phủ quyết định lấy giá hàng hoá ở vùng tự do cũ làm cơ sở, sau đó nâng dần giá ở vùng mới giải phóng lên; đồng thời công bố giá bán lẻ 6 mặt hàng thiết yếu đối với đời sống là: gạo, muối, vải, đường, dầu hoả và giấy. Nhờ chuẩn bị tốt nên thương nghiệp quốc doanh cơ bản đáp ứng được nhu cầu hàng hóa cho vùng mới giải phóng. Chính phủ còn sử dụng nhiều biện pháp để nắm hàng tồn kho của tư thương, buộc họ phải đưa hàng hóa ra bán ở thị trường, kiên quyết đấu tranh chống bọn gian thương đầu cơ, tích trữ, phá rối thị trường [Đào Văn Tập, 1980, 163].
Mặc dù đã có những biện pháp ngăn chặn; nhưng trên thị trường vẫn xuất hiện nạn đầu cơ lương thực. Cụ thể là tư thương mua gạo và vận chuyển về những vùng thiếu đói, bán với giá cao. Trước tình hình đó, từ ngày 17 tháng 1 năm 1955, các cửa hàng mậu dịch quyết định bán gạo theo phiếu gia đình. Biện pháp này đã phát huy tác dụng tích cực, thị trường gạo ở Hà Nội và các tỉnh giá có xu hướng giảm dần. Thương nghiệp quốc doanh còn hỗ trợ cho bộ phận thương nghiệp vùng tạm chiếm chuyển sang phục vụ dân sinh và sản xuất theo chủ trương của Đảng và Nhà nước.
Để phát triển mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán, Chính phủ đã ban hành một số văn bản. Ngày 14 tháng 12 năm 1954, Phủ Thủ tướng ra Nghị định số 419-TTg quy định việc thành lập các Tổng công ty chuyên nghiệp mậu dịch quốc doanh. Ngày 15 tháng 3 năm 1955, Bộ Công thương ra Chỉ thị số 454-BCT/KB tổ chức lại ngành mậu dịch quốc doanh, thành lập và sắp xếp lại hệ thống công ty chuyên nghiệp mậu dịch quốc doanh. Tháng 11 năm 1955, Đảng có Chỉ thị tổ chức hợp tác xã mua bán. Ngày 26 tháng 12 năm 1955, Phủ Thủ tướng ra Nghị định số 641-TTg thành lập các cơ quan quản lý hợp tác xã ở cấp trung ương, khu, tỉnh, thành phố. Tháng 12 năm 1955, Nhà nước ban hành Quy tắc tổ chức hợp tác xã mua bán ở nông thôn và hợp tác xã tiêu thụ ở thành thị.
Thực hiện theo các văn bản trên, năm 1956, số tổng công ty đã tăng lên 6, đến năm 1957 tăng lên 10 tổng công ty. Để phục vụ tốt cho người tiêu dùng, mậu dịch quốc doanh đã mở hàng loạt các cửa hàng bán lẻ tổng hợp, cửa hàng chuyên doanh và các cửa hàng phục vụ như cửa hàng ăn, giải khát, cửa hàng may mặc ở các thành phố và các nơi tập trung nhân dân lao động. Số cửa hàng thu mua và cung cấp của mậu dịch quốc doanh tăng nhanh: 1955 có 474 cửa hàng, năm 1956 có 624 cửa hàng, năm 1957 có 906 cửa hàng [Đặng Phong & cộng sự, tập 2, 381]. Năm 1955, ở miền Bắc có 36 cơ sở ở 7 tỉnh với 258.062 xã viên hợp tác xã mua bán. Hợp tác xã mua bán đầu tiên được lập ngày 15 tháng 3 năm 1955 là Hợp tác xã mua bán Thanh Ba (Phú Thọ). Về sau ngày 15 tháng 3 trở thành ngày truyền thống của Hợp tác xã mua bán1 nước ta.
Ngoại thương: ngay sau khi miền Bắc giải phóng, hoạt động ngoại thương được tập trung vào Nhà nước nắm, hoạt động của tư nhân bị thu hẹp dần về quy mô, mặt hàng và thị trường. Thời kỳ này, ngoại thương thực hiện theo phương châm không ngừng củng cố và phát triển quan hệ kinh tế với các nước xã hội chủ nghĩa, đồng thời mở rộng quan hệ thương mại với các nước khác trên nguyên tắc bình đẳng, hai bên cùng có lợi. Nước ta đã nhanh chóng tăng cường quan hệ kinh tế, thương mại
1 Hợp tác xã mua bán là tổ chức mua bán do nhân dân lao động tự nguyện lập nên, là đơn vị kinh doanh độc lập, lãi được hưởng, lỗ thì phải chịu.
với Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa khác và với một số nước trên thế giới. Ngày 18/7/1955, Chính phủ ta ký với Liên Xô Hiệp định về việc Liên Xô giúp Việt Nam hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế... Cũng vào thời gian này, Chính phủ các nước xã hội chủ nghĩa, Ba Lan, Tiệp Khắc, Cộng hoà dân chủ Đức, Bun-ga-ry, Hung-ga-ry, Mông Cổ đã ký Hiệp định về viện trợ hàng hóa và kỹ thuật giúp Việt Nam khắc phục hậu quả chiến tranh. Chính phủ ta còn ký Hiệp định thương mại với Pháp, Ấn Độ, Indonexia; mở rộng quan hệ buôn bán với Xingapo, các nước Tây Âu, Thụy Sỹ, Thụy Điển [Đào Văn Tập, 1980, 240]. Việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại đã giúp chúng ta có được những kỹ thuật, vốn và hàng hóa cần thiết để khôi phục và xây dựng kinh tế.
Về tài chính: Trong những năm khôi phục kinh tế, việc quản lý ngân sách của Nhà nước đã được thống nhất, bước đầu đã phân cấp quản lý cho các tỉnh, xây dựng ngân sách địa phương bao gồm cấp tỉnh và huyện, chấn chỉnh một bước ngân sách cấp xã. Chính phủ đã sớm ban hành chính sách thuế công thương mới và coi thuế là công cụ để quản lý hoạt động kinh tế. Thuế nông nghiệp đã được điều chỉnh, theo biểu thuế mới, tỷ lệ nguồn động viên nguồn thu từ thuế nông nghiệp đã giảm xuống đến 15% (trong thời kỳ kháng chiến 20%) nhằm khuyến khích nông dân phát triển sản xuất. Thuế nông nghiệp trong tổng thu ngân sách nhà nước giảm từ 50,5% năm 1955 xuống còn 25,8% năm 1956 và 17,5% năm 1957. Trong khi đó khu vực công thương nghiệp có nguồn thu tăng nhanh. Đặc biệt thu từ kinh tế quốc doanh tăng rất nhanh: năm 1955 là 100 thì năm 1957 là 682; năm 1956 thu từ xí nghiệp quốc doanh chiếm 13,6% tổng thu ngân sách, thì năm 1957 là 24,6% [Đặng Phong, 2005,
tập 2, 533].
Từ đầu năm 1955, ngay sau khi thi hành thu thuế hàng hóa, Nhà nước đã ban hành thuế tồn kho với quy định cụ thể: tất cả các cửa hàng có hàng tồn kho thuộc loại chịu thuế hàng hóa phải kê khai đầy đủ số lượng hàng và phải nộp thuế hàng hóa trong một thời gian ngắn. Thuế tính theo giá thị trường, trên số hàng họ có, không cần biết có bán ra hay không. Trong trường hợp tồn kho quá lớn, nhiều không đủ khả năng nộp, thì phải bán hàng cho Nhà nước theo giá quy định. Biện pháp này buộc
các nhà kinh doanh phải bán hàng ra thị trường để thu hồi vốn bù vào thuế phải nộp. Thuế tồn kho không chỉ hạn chế tình trạng đầu cơ tích trữ, mà còn có tác dụng hạn chế thế lực kinh tế của các doanh nghiệp tư nhân lớn, tăng nguồn hàng và nguồn thu vào ngân sách nhà nước.
Về tiền tệ: Tiến hành thu hồi các loại tiền Đông Dương, tín phiếu và tiền ngân hàng nhân dân Nam Bộ, đồng thời lưu hành giấy bạc ngân hàng trung ương đã phát hành năm 1951. Thực hiện theo phương châm: Pháp rút đến đâu thì ngân hàng thu đổi tiền Đông Dương đến đó; tỷ giá quy đổi được ấn định từng nơi, từng lúc, dựa vào tình hình thực tế sức mua của đồng tiền và thái độ của nhân dân đối với tiền Đông Dương. Ngân hàng Quốc gia Việt Nam đã nhanh chóng thu hồi hết tiền Đông Dương bằng việc phát hành thêm 4 tỷ đồng tiền ngân hàng [Đặng Phong, 2005, tập 2, 518]. Mục đích của việc này là để chiếm lĩnh thị trường, mau chóng xây dựng thị trường tiền tệ thống nhất của ta trên toàn bộ lãnh thổ miền Bắc, tạo điều kiện cơ bản để Đảng và Nhà nước sử dụng tiền tệ làm công cụ khôi phục kinh tế, tổ chức sản xuất và lưu thông hàng hóa, ổn định và cải thiện dần đời sống nhân dân lao động.
Trong những năm khôi phục kinh tế, ngân hàng Quốc gia đã chuyển hướng từ cho vay vận chuyển, tiêu thụ lâm thổ sản sang trực tiếp cho vay nông nghiệp, giúp nông dân ở nơi đã cải cách ruộng đất mua sắm trâu bò cày, khai phá ruộng hoang ở vùng mới giải phóng. Trong 3 năm (1955- 1957), ngân hàng đã cho nông nghiệp vay 41.692 triệu đồng, bằng hơn 40 lần so với giai đoạn 1951-1954. Chỉ từ tháng 7 năm 1955 đến cuối năm 1956 ngân hàng cho vay tới 37 tỷ đồng (tiền ngân hàng cũ). Qua đây cho thấy, ngân hàng đã cho vay ồ ạt, tràn lan, mang tính cứu tế, thiên về tín dụng chính trị; tiền cho vay ra nhiều hơn số vật tư thực có mà đại bộ phận là cho vay bằng tiền mặt nên đã ảnh hưởng không tốt tới giá cả [Đặng Phong, 2005, tập 2, 527]. Ngân hàng đã tập trung gần 90% số tiền vay để phục vụ cho thương nghiệp, đẩy mạnh giao lưu kinh tế giữa thành thị và nông thôn, chú trọng tăng cường lực lượng mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán.
Ngày 27 tháng 11 năm 1955 Thủ tướng Chính phủ ra Thông tư số 622/TTg về quản lý tiền mặt. Theo đó, các cơ quan đoàn thể, xí nghiệp