Chủ đề đời tư trong thơ Nguyễn Khuyến - 2


5. Nhiệm vụ nghiên cứu

5.1. Làm rò một số khái niệm có liên quan đến đề tài

5.2.Khảo sát và hệ thống hóa các tác phẩm mang chủ đề đời tư trong thơ Nguyễn Khuyến

5.3. Phân tích và đánh giá về tác dụng, ý nghĩa của các phương diện thể hiện chủ đề đời tư trong thơ Nguyễn Khuyến. Qua đó, khẳng định vai trò vị trí của chủ đề đời tư trong thơ Nguyễn Khuyến đối với tiến trình phát triển của văn học trung đại Việt Nam trong việc thể hiện con người nói chung, sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Khuyến nói riêng.

6. Phương pháp nghiên cứu

Để đạt được mục đích và hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu, khi thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:

- Phương pháp thống kê phân loại, phương pháp này giúp chúng tôi phân loại và lựa chọn chính xác đối tượng nghiên cứu. Trong quá trình triển khai và giải quyết vấn đề, phương pháp này có tác dụng chỉ ra và cụ thể hóa các khía cạnh của vấn đề

- Phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp này phục vụ đắc lực cho quá trình tìm hiểu, khám phá và đánh giá ý nghĩa của vấn đề được nghiên cứu. Đây là phương pháp không thể thiếu để có thể hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

- Phương pháp so sánh (lịch đại, đồng đại) để tạo ra tương quan so sánh nhằm chỉ ra sự tiếp nối cũng như những sáng tạo mới mẻ riêng biệt của đối tượng nghiên cứu.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.

- Phương pháp liên ngành, vận dụng hiệu quả các môn khoa học liên ngành (lịch sử học, văn hóa học, toán học, xác suất thống kê…) nhằm giúp cho vấn đề được nhìn nhận bao quát hơn và chính xác hơn.

7. Kết cấu luận văn

Chủ đề đời tư trong thơ Nguyễn Khuyến - 2

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Thư mục tham khảo, Phụ lục, Nội dung chính của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Một số vấn đề lí luận và thực tiễn liên quan đến đề tài Chương 2: Chủ đề đời tư qua bức chân dung tự họa.

Chương 3: Chủ đề đời tư qua các mối quan hệ cá nhân.


8. Đóng góp của luận văn


Là công trình đầu tiên khảo sát, thống kê những bài thơ về chủ đề đời tư mà Nguyễn Khuyến thể hiện trong sáng tác của mình. Từ đó, phân tích, lập luận chỉ ra nội dung tư tưởng mới mẻ và phong phú của mảng thơ này đối với sự nghiệp văn học của Nguyễn Khuyến. Thông qua đó, giá trị thơ văn và tài năng của Nguyễn Khuyến được khẳng định sâu sắc hơn.

Luận văn là một trong những nguồn tư liệu hữu ích phục vụ việc giảng dạy, học tập và nghiên cứu về Nguyễn Khuyến.


NỘI DUNG

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI


1.1. Khái niệm chủ đề đời tư


1.1.1. Phân biệt chủ đề và đề tài


Đề tài là “khái niệm chỉ loại các hiện tượng đời sống được miêu tả, phản ánh trực tiếp trong tác phẩm văn học ” [7, tr. 110]. Có thể hiểu đề tài là yếu tố cơ bản của tác phẩm văn học dùng để chỉ phạm vi đời sống hoặc tâm trạng được phản ánh trong công trình nghệ thuật của nhà văn.

Chủ đề là “vấn đề cơ bản, vấn đề trung tâm được tác giả nêu lên, đặt ra và qua nội dung cụ thể của tác phẩm văn học ” [7, tr. 61].

Đề tài là một khái niệm về loại của hiện tượng đời sống được miêu tả. Có bao nhiêu hiện tượng đời sống có bấy nhiêu đề tài. Khi nói đến đề tài tác phẩm, ta không phải chỉ nói tới một đề tài, mà thực chất là một hệ thống đề tài liên quan nhau, bổ sung cho nhau tạo thành đề tài của tác phẩm. Tương tự như vậy, về bản chất, chủ đề văn học không bao giờ là vấn đề đơn nhất. Nếu trong thực tại, bản chất con người đã là một tổng hòa các mối quan hệ xã hội, thì điều đó có nghĩa là bất cứ một vấn đề nào của con người cũng liên quan đến hàng loạt vấn đề phức tạp khác của quan hệ xã hội. Vì thế, trong một tác phẩm cũng có chủ đề chính và chủ đề phụ. Như vậy, thực chất khái niệm đề tài, chủ đề mang tính hệ thống.

Đề tài và chủ đề có mối quan hệ mật thiết với nhau và có mối quan hệ đặc biệt quan trọng với nội dung tác phẩm. Đề tài và chủ đề là những khái niệm chủ yếu thể hiện phương diện khách quan của nội dung tác phẩm văn học. Nếu khái niệm đề tài giúp ta xác định “Tác phẩm viết cái gì ?”, thì khái niệm chủ đề lại giải đáp câu hỏi “Vấn đề cơ bản của tác phẩm là gì? ”. Chủ đề bao giờ cũng được hình thành và được thể hiện trên cơ sở đề tài. Đề tài và chủ đề là hai khái niệm khác biệt nhau nhưng trong một số trường hợp đề tài và chủ đề hòa quyện với nhau không tách


được như một số tác phẩm ngụ ngôn, truyện đồng thoại, một số thơ trữ tình... Người tiếp nhận có thể đi thẳng từ đề tài bên ngoài vào chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Như vậy đề tài và chủ đề là một con đường quan trọng giúp người đọc có thể đi vào và tiếp nhận nội dung tác phẩm.

Nhận thức được tầm quan trọng của đề tài và chủ đề trong tác phẩm văn học, các nhà văn luôn quan tâm đến vấn đề này trong quá trình sáng tác. Mặc dù là những phương diện khách quan của nội dung tác phẩm nhưng đề tài và chủ đề đều có tính chất chủ quan. Không chỉ gắn với hiện thực khách quan, đề tài và chủ đề còn do lập trường tư tưởng và vốn sống của nhà văn quy định. Các nhà văn chân chính luôn có ý thức trong việc làm mới đề tài, chủ đề trong sáng tác của mình. Nguyễn Khuyến với chủ đề đời tư trong thơ chính là một trường hợp như vậy.

1.1.2. Phân biệt con người cá nhân và chủ đề đời tư

Văn học là một hoạt động sáng tạo, sự sáng tạo mang tính cá nhân trực tiếp và độc đáo. Vì thế, sáng tác văn học bộc lộ mạnh mẽ và phong phú vai trò của nhân tố chủ quan (dấu ấn của chủ thể sáng tạo).

Ở thời nào cũng vậy, sức sáng tạo của dân tộc kết tinh ở những cây bút lớn đều có những cách khẳng định tư tưởng, cá tính và tài nghệ độc đáo của riêng mình... Điều đó cũng có nghĩa là: ở mức độ đậm nhạt khác nhau, tác phẩm văn học viết bao giờ cũng ít nhiều in dấu ấn cá nhân. Dấu ấn cá nhân này không thể có ở dòng văn học dân gian do sáng tác được tiến hành tập thể và lưu truyền bằng miệng, là kết quả nhận thức - thẩm mĩ của một tập thể trong cộng đồng.

Dấu ấn cá nhân là cơ sở để nhận diện con người cá nhân trong văn học. Dấu ấn cá nhân là biểu hiện của chủ thể con người riêng biệt. Khi nào con người riêng biệt ấy có ý thức tự khẳng định sự tồn tại, khẳng định giá trị riêng của mình gắn với ý nghĩa nhân sinh quan của con người thì xuất hiện con người cá nhân. Như vậy con người cá nhân trong sáng tác văn chương là quá trình tự ý thức về mình của con người, là cái “tôi” tác giả thể hiện trong tác phẩm - sự diễn tả giãi bày thế giới tư tưởng, tình cảm, ước mơ khát vọng... thầm kín của nhà văn, sự khẳng định vai trò bản ngã của nhà văn.


Văn học viết Việt Nam thời kì trung đại với tư cách là những sản phẩm sáng tạo tinh thần của những chủ thể - cá thể, đã xuất hiện con người cá nhân. Trong lời kết cuốn “Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam”, Trần Đình Sử khẳng định: “Con người cá nhân trong văn học trung đại có một quá trình tự ý thức chậm chạp, lâu dài nhưng mạnh mẽ. Tuy qua từng thời kì lịch sử có chịu ảnh hưởng của các ý thức hệ thống trị đương thời nhưng không bao giờ đóng khung trong ý thức hệ đó mà phản ánh quá trình vận động, giải phóng cá tính của con người trong thực tế đời sống” [26, tr. 194]. Đặc biệt “Từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII... con người cá nhân khẳng định mình bằng cách gắn mình với đạo, với tự nhiên, với nghĩa vụ trong sự nghiệp chung của cộng đồng, yếu tố quyền lợi cá nhân chưa được chú ý...” [26, tr. 194].

Như vậy có con người cá nhân chưa hẳn đã có chủ đề đời tư. Trong những bài thơ tự thuật, cảm hoài, ngôn chí, ngôn hoài..., các tác giả đã gửi gắm, bộc lộ tâm sự của mình. Nhưng thời trung đại, chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo và giai đoạn phát triển của nhà nước phong kiến, con người sống bằng các giá trị chủ yếu như đạo lí cương thường, cho nên bộc lộ tâm sự mà không thấy tâm trạng, không thấy cái “tôi” trữ tình riêng, không nhằm nói tiếng nói của cái “tôi” cá biệt mà nói tiếng nói của cái “ta” (phần đạo lí trong cái “tôi” đó). Đây là tiếng nói của sự tự ý thức về nghĩa vụ, về trách nhiệm của con người cá nhân trước vận mệnh đất nước chứ không phải mang màu sắc của con người cá nhân ở một mức độ nhất định.

Con người là tổng hòa của các mối quan hệ xã hội” (Các Mác). Văn học lại là một bộ môn nghệ thuật lấy con người làm đối tượng phản ánh chủ yếu cho nên văn học phản ánh các mối quan hệ xung quanh con người. Chỉ khi nào con người với những mối quan hệ riêng tư chiếm một vị trí lớn trong đời sống của họ, những giá trị cá nhân như quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc cá nhân như một quyền tự nhiên... được đề cao, được chú ý thì khi đó có sự xuất hiện của chủ đề đời tư trong văn học.

1.1.3. Khái niệm chủ đề đời tư

Từ khái niệm chung về chủ đề có thể xác định: ở chủ đề đời tư, vấn đề chủ yếu, vấn đề trung tâm mà nhà văn nêu lên, đặt ra trong tác phẩm là các vấn đề đời tư của chính bản thân tác giả, thể hiện trên các phương diện cơ bản sau:


- Con người và cuộc sống riêng của chính tác giả.

- Các mối quan hệ riêng tư

Như vậy, trong tác phẩm văn học có sự xuất hiện của chủ đề đời tư, tác giả đã đưa chính mình vào thơ văn mình như một nhân vật khách thể. Nhân vật ấy với tác giả vừa là một, vừa không là một vì nó đã là một nhân vật của văn học được xây dựng theo quy luật sáng tạo của nghệ thuật vốn dĩ là thiên hình vạn trạng, vừa thực vừa hư nhưng tất cả đều trên một cái nền tâm trạng thực, một nhân cách thực.

Dễ thấy, có hai nguyên nhân chủ yếu của sự hình thành và xuất hiện chủ đề đời tư trong văn học. Nguyên nhân thứ nhất có thể kể đến là do quy luật phát triển tất yếu của văn học. Nguyên nhân thứ hai chính là do có sự phát triển của cá tính và ý thức cá nhân trong văn học. Trên thực tế, chủ đề đời tư chỉ xuất hiện khi con người có ý thức về cá nhân, cá tính của mình. Bởi thế, một số thể loại văn học dân gian tiêu biểu không hề có chủ đề đời tư. Chẳng hạn, “Thần thoại là tập hợp những truyện kể dân gian về các vị thần, các nhân vật anh hùng, các nhân vật sáng tạo văn hóa, phản ánh quan niệm của người thời cổ về nguồn gốc thế giới và đời sống con người”. Thần thoại được coi là những sáng tác sớm nhất trong quá trình phát triển của lịch sử văn học dân tộc. Thần thoại là sản phẩm của người nguyên thủy, khi con người bắt đầu có ý thức nhưng chưa tách mình ra khỏi tự nhiên. Điều kiện sinh sống của người nguyên thủy một mặt khiến cho họ không thể đấu tranh với lực lượng tự nhiên, mặt khác gắn chặt họ với tự nhiên. Sáng tạo thần thoại, người nguyên thủy đã “dùng tưởng tượng, mượn tưởng tượng để chinh phục sức tự nhiên, chi phối tự nhiên, hình tượng hóa tự nhiên” [21, tr. 69]. Hàng loạt truyện thần thoại của người Việt như “Thần trụ trời”, “Sơn tinh thủy tinh”, “Thần mưa”, “Thần mặt trời” “Nữ thần mặt trăng” “Mười hai bà mụ”... đã ra đời như một nhu cầu để nhận thức, lý giải các hiện tượng tự nhiên và thể hiện khát vọng chinh phục tự nhiên của người Việt cổ. Như vậy, thần thoại phản ánh mối quan hệ giữa con người và tự nhiên là chủ yếu. Do đó, ở thần thoại chưa xuất hiện chủ đề đời tư. Tương tự, sử thi ra đời khi xã hội nguyên thủy đã tan rã, xã hội phong kiến chưa hình thành; là bức tranh rộng và hoàn chỉnh về đời sống nhân dân với nhân vật trung tâm là những anh hùng, dũng sĩ


đại diện cho bộ tộc. Đó là những bài ca ca ngợi những kì tích của toàn thể cộng đồng mà tiêu biểu là ca ngợi những nhân vật anh hùng trong sự nghiệp xây dựng đời sống chung như chinh phục tự nhiên, chiến đấu chống kẻ thù bảo vệ bộ tộc... Con người sử thi là những dũng sĩ có sức mạnh, tài năng và vẻ đẹp phi thường. Họ có thể giết tê giác, bắt voi rừng, quật ngã trâu như Khinh Dú, Xinh Nhã... Có thể đánh bại các tù trưởng để trở thành “tù trưởng của các tù trưởng”, chặt cây thần, đi bắt nữ thần mặt trời để chinh phục tự nhiên như Đam San... Con người sử thi có ý thức và nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ đối với cộng đồng, nhưng con người sử thi chưa phải là những con người phát triển ý thức cá nhân, con người bên trong, con người cho riêng mình, vì mình. Đại diện toàn năng cho bộ tộc, tiêu biểu cho những gì tốt đẹp nhất của cộng đồng, rò ràng sử thi chủ yếu phản ánh mối quan hệ giữa con người và lịch sử, con người với cộng đồng. Không thể tìm thấy chủ đề đời tư trong những tác phẩm này.

Đến thời trung đại, bản chất con người bắt nguồn từ quan hệ cộng đồng; giá trị cá nhân nằm trong giá trị tập thể. Con người ý thức cá tính trong cái chuẩn mực vô ngã. Theo giáo sư Trần Đình Sử, sự ý thức về cá tính trong xã hội Việt Nam trung đại không nằm ngoài quy luật phổ biến trên nhưng có tính đặc thù. Con người một mặt lấy luân thường đạo lí làm phương châm răn mình, làm khuôn đúc nhân cách, mặt khác cá tính con người được ý thức bằng các phạm trù “siêu chuẩn”, “phi chuẩn”. Các phạm trù đó có thể là “tài tình”, “nghịch tử”... Nó được ý thức qua phạm trù “tâm sự” mang tính chất trữ tình. Khi Nguyễn Trãi viết:

Đống lương tài có mấy bằng mày, Nhà cả nhiều phen chống khỏe thay .

(Tùng)


thì “tài” ở đây không phải để khoe mà nó là một phạm trù để ý thức cá tính, để nhận ra giá trị tự thân của con người. Sang giai đoạn văn học cuối thế kỷ XVIII, thế kỷ XIX, lại xuất hiện hàng loạt các tác giả như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát... lấy “ngông” làm tài để khẳng định cá tính...


Tất cả đều là kết quả của việc con người tách mình ra khỏi môi trường xung quanh, con người tự cho phép mình như một chủ thể tự nhận thức. Và chính sự vượt lên khuôn khổ, sự tự nhận thức ấy, con người cá nhân đã được khẳng định.

1.2. Chủ đề đời tư trong văn học trung đại


1.2.1. Khái quát chung


Con người trong văn học chịu ảnh hưởng sâu đậm của tư tưởng triết học, thần học mỗi thời. Giống như con người trong văn học trung đại Trung Quốc mang đậm dấu ấn của tam giáo Nho, Đạo, Phật, văn học trung đại Việt Nam ra đời và phát triển dưới các triều đại phong kiến, ảnh hưởng sâu sắc của ý thức hệ phong kiến. Đặc điểm chung của ý thức trung đại phản ánh vào các luồng tư tưởng này là quan niệm về con người “vô ngã”. Cả Nho, Phật, Đạo đều chủ trương lý tưởng vô ngã, phá ngã, vô kỷ... Điều này đã chi phối đến cách ứng nhân xử thế, xác định mối quan hệ qua lại giữa cá nhân và cộng đồng của con người trong văn học.

Có thể nói, thời trung đại cái riêng chưa phát triển, mối quan hệ của con người là mối quan hệ với cái chung, với cộng đồng, với dân tộc. Nhân cách con người được tăng cường ở vị trí công dân – một phần tử của đất nước, ít có chỗ cho cá nhân tự ý thức, có khi hy sinh cũng là sự xả thân để thành nhân.

Tuy vậy, đặc trưng này không phải là sự nhất thành bất biến trong suốt quá trình phát triển của văn học trung đại. Lý tưởng chung của tam giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống văn học là vậy, nhưng văn học lại là một lĩnh vực ý thức về đời sống con người, không thể lược quy con người trong văn học vào các ô có sẵn của triết học. Văn học trung đại Việt Nam chịu sự chi phối của tư tưởng triết học Trung Quốc nhưng không đồng nhất với chúng. Con người ta sinh ra, ai cũng có cá tính, có nhu cầu tự khẳng định mình trong xã hội, trong sự tồn tại của chính mình. Con người cá nhân riêng tư với những nhu cầu, lợi ích của “đời sống hiện hữu” luôn tồn tại bên “một đời sống tâm linh”. Người ta không chỉ coi trọng mặt tinh thần của cuộc sống để trau dồi cho mình những đức tính cần thiết, khi phải đối diện với những cái thường ngày, những vấn đề của riêng mình, sự tự ý thức về cá nhân sẽ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 04/08/2022