Kinh tế du lịch Phần 2 - 2


khả năng bổ sung cho nhau nhưng lại riêng biệt trong sử dụng. Ví dụ tiêu biểu cho loại đầu tư này là các dự án đầu tư bến cảng ở khu vực Địa Trung Hải, California (xem hình 5.123).


Hình 5 1 Các yếu tố đầu tư trong dự án bến cảng khu vực Địa Trung Hải Dự 1


Hình 5.1. Các yếu tố đầu tư trong dự án bến cảng khu vực Địa Trung Hải


Dự án đầu tư trị giá 500 triệu bảng Anh (750 triệu USD) này đòi hỏi mỗi yếu tố của dự án kinh doanh sử dụng hỗn hợp phải bổ sung và thúc đẩy thu nhập kỳ vọng của các yếu tố (khu vực) khác. Về cơ bản, phần dự án đầu tư cho dân cư có thể tạo ra các khoản thu cao hơn nên hỗ trợ cho các yếu tố phục vụ du lịch trong quan hệ tài chính, nhưng sự hấp dẫn khách du lịch của toàn bộ dự án sẽ cải thiện khả năng thị trường của các yếu tố phục vụ dân cư.

(6). Mặc dù có một số dự án (như đầu tư vào “sự kiện” du lịch) có khả năng hoàn trả vốn nhanh, nhưng nhiều dự án đầu tư du lịch tồn tại trên cơ sở phụ thuộc vào dòng thu hồi vốn trong thời kỳ dài của mình. Nhiều hoạt động du lịch có tính thời vụ nên giá trị thu nhập trong từng thời kỳ của dự án đầu tư có tính chất không ổn định. Đặc điểm này của


23 Theo: Bull, A. (1998), The Economics of Travel and Tourism, 2nd edition, Longman, Melbourne.


đầu tư du lịch có khuynh hướng làm giảm khả năng sinh lợi kỳ vọng của dự án. Đồng thời, tính thời vụ này còn đặt ra yêu cầu quản lý dòng tiền (lưu chuyển tiền tệ), đó là dùng tín dụng ngắn hạn hoặc rút các khoản tiết kiệm từ lưu chuyển tiền tệ chính vụ dưới hình thức tiền gửi hoặc chứng khoán ngắn hạn để bù đắp các chi phí trái vụ (xem hình 5.2).


Hình 5 2 Quản lý lưu chuyển tiền tệ theo thời vụ Thực hiện các yêu cầu trên 2


Hình 5.2. Quản lý lưu chuyển tiền tệ theo thời vụ


Thực hiện các yêu cầu trên đều phải trang trải chi phí, đó là lãi suất phải trả và chi phí cơ hội sử dụng các quỹ. Hầu hết các dự án đầu tư du lịch để cung cấp sản phẩm cho thị trường kỳ nghỉ đều mang tính chất thời vụ ở một mức độ nhất định. Do tính thời vụ không thể tránh được, nên một số nhà kinh doanh giỏi cố gắng làm giảm sự khó khăn trong lưu chuyển tiền tệ bằng cách sử dụng tài sản đầu tư để tạo ra sản phẩm có chu kỳ ngược lại với sản phẩm chính thức. Như một số khu nghỉ dưỡng trượt tuyết mùa đông ở Colorado (Mỹ) đã rất thành công khi biến thành các trung tâm trượt cỏ, leo núi, tập thể hình vào mùa hè; các hãng tàu thuỷ du lịch thay đổi hành trình của tàu từ vòng quanh bán đảo Scandinavi vào mùa hè tới vùng biển Caribê vào mùa đông.


5.2.3. Đầu tư vào các "sự kiện" du lịch

Các sự kiện du lịch là một bộ phận sản phẩm du lịch phát triển mạnh mẽ trong những năm 80, 90 của thế kỷ XX và thời gian gần đây. Đây là các điểm hấp dẫn du lịch trong một khoảng thời gian cố định, bao gồm từ các lễ hội nhỏ mang tính địa phương đến các hoạt động có tính quốc tế hoặc các sự kiện lớn. Đầu tư vào các sự kiện trong thời gian cố định có nhiều điểm khác với đầu tư lâu dài vào một cơ sở du lịch. Một số sự kiện hầu như chỉ cần vốn lưu động và sử dụng các tiện nghi cố định có sẵn như các sự kiện thể thao và các lễ hội lớn. Một số sự kiện khác vẫn có nhu cầu vốn cố định đáng kể nhưng có thời kỳ hoàn vốn ngắn như các cuộc triển lãm quốc tế tổ chức hai năm một lần. Do đó, các dự án đầu tư du lịch này rất hấp dẫn đối với doanh nhân là những người cân nhắc đầu tư trên cơ sở thời kỳ hoàn trả nhanh khi so sánh với đầu tư dài hạn như trong khai thác tài nguyên tự nhiên hoặc sản xuất, đặc biệt ở nơi được đánh giá là có nhiều rủi ro trong dài hạn.

Nhiều sự kiện quốc tế hoặc sự kiện lớn cần cả đầu tư của chính phủ và đầu tư của tư nhân. Trong khi sự thu hồi vốn đối với nhiều nhà kinh doanh thương mại có thể nhận được từ thu nhập trong thời gian diễn ra sự kiện thì các đầu tư vào cơ sở vật chất của chính phủ và của tư nhân chỉ đảm bảo nếu những cơ sở này có thể tiếp tục sử dụng trong thời gian sau sự kiện. Ví dụ, toàn bộ đầu tư cần thiết của chính phủ và tư nhân cho sự kiện Olympic hiện nay có thể hơn 5 tỷ USD, trong đó chỉ một phần nhỏ sẽ được bù đắp trong thời gian 3 tuần diễn ra các cuộc thi đấu. Các cửa hàng kinh doanh ăn uống, hàng lưu niệm thu hồi được vốn đầu tư vào dự trữ thực phẩm, hàng hoá và dụng cụ trong 3 tuần, nhưng đầu tư vào công trình thi đấu thể thao, khách sạn, hệ thống giao thông và hạ tầng thông tin... thì phải dựa vào các khoản thu nhập dài hạn sau Olympic. Việc dự tính không chính xác các khoản thu nhập này đã làm cho các nhà kinh doanh khách sạn và kinh doanh các công trình khác phải nhận khoản thua lỗ dài hạn như ở Seoul năm 1988 và Barcelona năm 1992. Do đó, việc


xác định quy mô kinh tế và quy mô xã hội của những sự kiện này cần phải được tích hợp trong các chính sách và hoạch định nói chung của chính phủ.


5.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN ĐẦU TƯ DU LỊCH

Sự phát triển của du lịch phụ thuộc chủ yếu vào lợi nhuận kỳ vọng tương lai (và các lợi ích xã hội) mà các doanh nghiệp và chính phủ dự báo từ các đầu tư du lịch của mình. Tính chất không ổn định của du lịch nói chung từ thế kỷ trước đến nay làm cho sự tăng trưởng toàn cầu của ngành nói chung là thấp, khoảng 6% mỗi năm. Sự biến động của du lịch chủ yếu bắt nguồn từ tính thời vụ và các sự kiện bất thường như hoạt động khủng bố hoặc các thảm hoạ tự nhiên, dịch bệnh. Tuy nhiên, có một số nhân tố đặc biệt ảnh hưởng đến các dự án đầu tư du lịch một cách riêng biệt và theo khu vực.

5.3.1. Các nhân tố ngắn hạn

Ngoài sự thay đổi của tỷ lệ lãi suất thị trường và dự kiến sự biến động của lạm phát, thì có hai nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến khả năng tồn tại của dự án đầu tư du lịch trong kỳ ngắn hạn. Thứ nhất là sự thay đổi của dòng du khách do hoàn cảnh biến đổi ở các quốc gia nguồn khách, quốc gia nơi đến hoặc mối liên hệ giữa hai quốc gia này gây ra. Điều đó chủ yếu làm thay đổi mô hình cầu du lịch địa phương. Du lịch quốc tế có sự nhạy cảm cao với những thay đổi về tỷ giá ngoại tệ dẫn đến sự biến động của giá cả ở cả nơi xuất phát và nơi đến du lịch. Các chính sách tài chính và cơ chế kiểm soát của chính phủ, chi phí vận chuyển hoặc thời tiết không thuận lợi theo mùa trong năm đều làm thay đổi đáng kể dòng du khách. Vì vậy, các nơi đến có vị trí đặc biệt có thể nhận hoặc không nhận được khả năng sinh lợi của đầu tư du lịch.

Nhân tố ngắn hạn thứ hai là mức độ phụ thuộc lẫn nhau giữa các nhà cung ứng sản phẩm du lịch. Khả năng tồn tại của các dự án motel


ven đường cao tốc có khách du lịch đi nhiều tuỳ thuộc đáng kể vào các khu nghỉ dưỡng, bãi cắm trại, khách sạn và các điểm hấp dẫn ở nơi đến. Dự án đầu tư vào một khách sạn nghỉ dưỡng ở Hawaii hoặc Majorca tuỳ thuộc vào các dịch vụ vận chuyển hàng không, vận chuyển mặt đất và các hoạt động bán lẻ và điều hành tour ở các thị trường nguồn khách. Với các sản phẩm bổ sung, bất kỳ sản phẩm nào cũng có thể là nhân tố hạn chế đầu tư như sức chứa của sân bay, các tiện nghi hoặc phà biển phục vụ đi lại giữa các đảo. Do đó, các tác động chéo này đến khả năng tồn tại của dự án đầu tư du lịch là rất quan trọng.

5.3.2. Các nhân tố bất thường

Các kỹ thuật kinh tế lượng và kỹ thuật khác để dự đoán tác động của các nhân tố ảnh hưởng ngắn hạn nêu trên ngày càng trở nên phức tạp, tuy nhiên các kỹ thuật này không thể áp dụng trong đánh giá tác động của các sự kiện bất thường hoặc theo chu kỳ đối với du lịch. Các nhà nghiên cứu có thể ước tính được mức độ tác động mà những sự kiện đó sẽ gây ra, nhưng không thể dự đoán được khi nào chúng xảy ra và tính khốc liệt của những sự kiện đó. Trong du lịch, các sự kiện này thường xảy ra ở các quốc gia nơi đến, do đó ảnh hưởng đến các sản phẩm cung ứng và các liên kết lữ hành.

Các cuộc bãi công của nhân viên điều khiển tín hiệu hàng không (ở châu Âu), của phi công (ở Úc) và nạn không tặc là những ví dụ về các sự kiện bất thường ảnh hưởng đến du lịch trong những năm 80 của thế kỷ

XX. Chiến tranh vùng Vịnh năm 1991 gây ảnh hưởng bất lợi đến du lịch quốc tế khắp toàn cầu nhưng làm bùng nổ du lịch trong nước ở nhiều quốc gia như một sự thay thế cho các chuyến đi du lịch nước ngoài. Sự thay đổi lớn giá nhiên liệu cũng có ảnh hưởng đến du lịch hàng không và du lịch bằng ô tô. Bạo lực chính trị và các thảm họa tự nhiên như bão hoặc động đất có thể vừa làm giảm cầu du lịch, vừa phá huỷ cơ sở kinh doanh du lịch ở các quốc gia nơi đến. Tất cả các sự kiện này cho thấy độ tác động trễ đến ngành, với thời gian hồi phục khác nhau từ 2 tháng đến


5 năm. Do đó, dự án đầu tư nào phụ thuộc vào thu nhập trong các thời kỳ này thì chỉ có thể có khả năng lợi nhuận sau đó, hoặc nếu liên quan đến các chi phí vốn lớn thì có thể không có khả năng lợi nhuận.

5.3.3. Các nhân tố dài hạn

Các doanh nhân đang đầu tư vào các tiện nghi nơi đến, các điểm hấp dẫn quan trọng hoặc các phương tiện vận chuyển cần nhiều vốn thì đều có nhu cầu nhận diện rõ các xu hướng thay đổi tiềm năng và những cơ hội mới có ý nghĩa trong du lịch. Ví dụ, thị hiếu và các yêu cầu về tiện nghi của du khách có thể thay đổi qua một số năm. Điều đó khuyến khích nhu cầu đầu tư thay thế theo chu kỳ ngắn để nâng cấp các tiện nghi đạt tiêu chuẩn được chấp nhận hiện tại; các tập đoàn khách sạn như ITT Sheraton thường lập quỹ cải tạo các khách sạn mới sau ít nhất 3 năm khai trương. Không chỉ nhu cầu của khách du lịch bị ảnh hưởng bởi kiểu mốt và tìm kiếm “những trải nghiệm mới” mà những biến đổi về kinh tế và xã hội của các thị trường nguồn khách cũng có ảnh hưởng không kém phần quan trọng. Đầu tư dài hạn phải đáp ứng được các yêu cầu về văn hoá của các thị trường tương lai mà hiện tại điều đó có thể chưa quan trọng.

Sự thay đổi môi trường bao gồm cả những vấn đề như sự chuyển dịch của khí hậu, có khả năng ảnh hưởng đến các nơi đến thông qua sự thay đổi trực tiếp một số thuộc tính của chính sản phẩm du lịch và thông qua sự lựa chọn các lợi thế về vị trí của các kiểu loại nơi đến du lịch khác nhau. Các kỹ thuật dự đoán chỉ mới sơ khai nhưng có thể đúng lúc, cho phép phân tích rủi ro một cách phù hợp và được đưa vào các đánh giá đầu tư du lịch.

Một trong các nhân tố có thể quan trọng nhất ảnh hưởng đến đầu tư du lịch là sự thay đổi công nghệ. Công nghệ của ngành sản xuất công nghiệp là điều kiện tiên quyết đối với cầu du lịch trong thế kỷ XIX, vì nó tạo ra các phương pháp sản xuất mới trong ngành chế tạo, rút ngắn thời gian làm việc của người lao động, tạo ra năng lượng hơi nước để vận


chuyển được nhiều người bằng đường sắt và đường biển. Trong thế kỷ XX, công nghệ giao thông hàng không, đường bộ và các phương tiện khác cho phép phát triển du lịch đại chúng tới nhiều điểm đến du lịch hơn mà không bị giới hạn bởi đường sắt hoặc tàu biển. Các nhà cung ứng điểm hấp dẫn du lịch cũng nhanh chóng tiếp thu những tiến bộ kỹ thuật trong các lĩnh vực như máy trò chơi, đi ô tô trong công viên chủ đề hoặc khu triển lãm và các trải nghiệm du lịch nhân tạo, ví dụ có thể tái tạo môi trường hoang dã hoặc môi trường dưới nước thay thế các môi trường nguyên bản. Công nghệ thông tin, công nghệ số đang làm cho các thị trường du lịch có hiệu quả hơn vì người tiêu dùng nhận được nhanh chóng, đầy đủ các thông tin và các nhà sản xuất phải cạnh tranh nhiều hơn trong quá trình phân phối. Chắc chắn rằng các tiến bộ khoa học và công nghệ sẽ tiếp tục có những tác động quan trọng đến sự phát triển của du lịch.


5.4. MÔ HÌNH VÀ NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ

5.4.1. Nghiên cứu khả thi và các mô hình đầu tư

Các quyết định đầu tư du lịch mới, đơn lẻ tuỳ thuộc phần lớn vào nghiên cứu khả thi gồm các biến số về kinh tế, marketing, tài chính và kinh doanh để đánh giá liệu một dự án đơn lẻ có thể tồn tại được không. Các biến số này được triển khai nghiên cứu trong quá trình phân tích các đầu tư tài sản như đầu tư vào khách sạn, motel hoặc khu nghỉ dưỡng mới. Chúng thường liên quan đến sự phát triển một dự án kinh doanh riêng biệt ở một vị trí riêng biệt nên cần phân tích chi tiết hơn so với sự đánh giá chung về tiềm năng đầu tư.

Đối với dự án đầu tư một khu nghỉ dưỡng hoặc khách sạn, Hình 5.3 là một ví dụ về các giai đoạn của nghiên cứu khả thi.



Thu thập số liệu

Các biến số ngoại sinh

thị trường, kinh tế, vị trí, cạnh tranh


Phân tích số liệu, đánh giá &

Doanh th ch

khuyến nghị


Dự kiến hoạt động kinh doanh


Phân tích khả

t


Phân tích cung & cầu

sự năng động, các

yêu cầu sản phẩ

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 171 trang tài liệu này.



Hình 5.3. Nghiên cứu khả thi đối với một khách sạn


Nghiên cứu khả thi xác định phương pháp để kết hợp với các kỳ vọng, thông số và phép chiếu trong phân tích đa biến. Các phương pháp Bayec thường được sử dụng để đánh giá rủi ro thông qua khả năng sinh lợi từ các kết quả thu được khác nhau và có thể bao gồm cả phân tích độ nhạy để xác định biến số nào có tầm quan trọng nhất ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi. Các mức độ rủi ro là nhân tố ảnh hưởng quan trọng đến quyết định đầu tư. Ngành du lịch thường được cho là một ngành có mức độ rủi ro cao trong đầu tư, vì vậy đầu tư du lịch phải được bù đắp bởi các mức thu hồi dự kiến cao hơn.

Khi cân nhắc đầu tư vào các tiện nghi cố định mà du khách phải di chuyển đến để tiêu dùng các dịch vụ ở đó thì vị trí và lựa chọn địa điểm là các biến số quan trọng. Một khách sạn, motel, điểm hấp dẫn, cửa hàng lưu niệm hoặc văn phòng đại lý du lịch không thể có vị trí bất kỳ như đối với các văn phòng tổng công ty hoặc các cơ sở bảo dưỡng ô tô. Lý thuyết về vị trí và kinh tế vùng không đóng góp nhiều cho phân tích các quyết

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 11/07/2024